huy trưởng của các đơn vị khác, tôi được biết có vài người kéo nạn nhân
nằm dài dưới đất để bắn một phát súng vào gáy. Tôi không tán đồng các
phương pháp đó.
Mùa xuân năm 1942, chúng tôi nhận được các xe hơi ngạt do Cảnh sát
Đặc biệt và cơ quan SD tại Bá linh gửi đến. Các xe này được đưa đến từ
Ban Amt II của cơ quan R.S.H.A. Người chịu trách nhiệm đoàn xe của toán
tôi là Becher. Chúng tôi đã nhận được lệnh dùng các xe này để hành quyết
đàn bà và trẻ con. Khi một đơn vị đã gom đủ một số nạn nhân, một xe liền
được gửi đến để thanh toán họ. Những xe tương tự đậu bên cạnh các trại
tạm trú. Chúng tôi nói với các nạn nhân rằng họ sắp được định cư lại từng
nhóm và do đó họ phải lên xe. Sau đó các cánh cửa đóng lại và hơi ngạt
được đưa vào trong ngay khi xe rồ máy. Các nạn nhân chết trong 10 hoặc
15 phút sau. Kế đó chúng tôi chở họ đến nơi chôn.
Tôi có xem bản phúc trình của Stahlecker (tài liệu L-180) liên quan đến
Einsatzgruppe A, trong đó ông ta đã xác nhận là toán của ông đã giết
135.000 người Do thái và cộng sản trong thời gian bốn tháng đầu của
chương trình. Tôi biết rõ Stahlecker, và theo ý tôi tài liệu ấy rất chính xác.
(Tài liệu 2273-PS đệ trình lên Tòa án Nuremberg cho thấy Einsatzgruppe A
đã xác nhận sau đó rằng cuộc hành quyết đến thời gian này là 229.052
người Do thái tại các vùng ven biển Baltique).
Người ta có cho tôi coi lá thư của Becher viết cho Rauff, trưởng ban kỹ
thuật tại Amt II về việc dùng các loại xe hơi ngạt này; tôi biết rõ cá nhân hai
người này. Và theo tôi lá thư ấy là một tài liệu xác thực.
Song song với hoạt động của các lực lượng đặc biệt ấy mà kết quả là cái
chết của nhiều trăm ngàn người, bọn Quốc Xã theo đuổi kế hoạch ba điểm
để tiêu diệt các cộng đồng Do thái còn lại, rải rác trong lãnh thổ Ba lan,
trong các quốc gia vùng ven biển Baltique và trong phần đất Nga do quân
đội Đức chiếm đóng. Kế hoạch gồm có di tản, gom lại và tiêu diệt.