“22 tháng 4 năm 1943. Sự kiện chúng tôi đốt cháy các khu nhà đưa đến
kết quả là, những người Do Thái mà chúng tôi không thể tìm thấy được mặc
dù đã có nhiều cuộc lục soát, đã rời khỏi nơi trú ẩn của họ dưới mái nhà,
trong các hầm rượu và nhiều chỗ khác, và họ xuất hiện ở bên ngoài các khu
nhà để tránh ngọn lửa. Trọn nhiều gia đình đã làm mồi cho ngọn lửa và
nhảy qua cửa sổ, hoặc cố tuột xuống bằng những tấm vải trải giường nối lại
với nhau. Chúng tôi đã sẵn sàng các biện pháp cho nên những người Do
thái này, cũng như những người Do thái còn ở lại, đã bị thanh toán ngay tức
khắc. Suốt đêm, nhiều tiếng súng được bắn ra tại các khu nhà phải được
giải tỏa. Chúng tôi không bị một thiệt hại nào trong các lực lượng bao vây,
5.300 người Do Thái đã được di tản.
24 tháng 4 năm 1943. Lúc 18 giờ 15, một toán trinh sát xông vào một
ngôi nhà đã bị bao vây và khám phá thấy bên trong một số lớn người Do
thái. Vì vài tên trong bọn chúng chống cự nên tôi ra lệnh thiêu hủy cả ngôi
nhà. Chỉ khi những ngôi nhà ven đường và các căn nhà phụ của chúng bị
đốt cháy, bọn Do thái, mà một số đã làm mồi cho ngọn lửa, mới chịu bò ra.
Một số khác thử cứu vãn mạng sống của mình bằng cách nhảy xuống
đường từ các cửa sổ và các sân thượng, sau khi đã quăng xuống đất giường
chiếu, mùng mền… Nhiều lần liên tiếp, chúng tôi nhận thấy bọn Do thái và
bọn vô lại, thà bị thiêu sống đã thường chạy trở lại nhảy vào lửa còn hơn là
để bị rơi vào tay chúng tôi. Thường thường họ tiếp tục bắn về phía chúng
tôi cho đến khi cuộc hành quân kết thúc; vì thế cho nên các chiến sĩ công
binh đã phải được bảo vệ bằng những khẩu đại liên, lúc đêm xuống, khi họ
tràn vào một ngôi nhà nhà xi măng đã được phòng thủ kiên cố.
Ngày 7 tháng 5 năm 1943. Hôm nay chúng tôi phá nổ tung khu nhà
bằng xi măng mà chúng tôi không thể tiêu hủy được. Công việc này cho
chúng tôi thấy rằng làm nổ tung một khu nhà là một công việc lâu dài và
đòi hỏi nhiều số lượng lớn chất nổ. Giải pháp tốt nhất và độc nhất để tiễu
trừ bọn Do thái vẫn là tiêu hủy”.