1938, khi hắn ta trông coi sở di dân Do thái tại Vienne. Lúc đó hắn ta gặp
gỡ những đại diện của các đoàn thể Do thái tại Áo và qua trung gian những
người nầy, hắn ta truyền các mệnh lệnh trục xuất. Với những người nầy,
ông dùng với vẻ thành thạo những danh xưng bằng tiếng yiddish hoặc
Hebrew của các tổ chức và đoàn thể thanh niên Do thái và Do thái theo
phong trào tự trị. Khi, từ môi tên Quốc Xã tàn bạo nầy, thốt ra một cách dễ
dàng những tiếng bí truyền như “He-chalutz”. Hắn ta đã gây ra cảm giác –
và đó là điều Eichmann muốn – là hắn ta đã thông hiểu rộng rãi các ngữ
vựng, trong khi thật sự các tiếng ấy là tất cả vốn liếng ngữ học của hắn ta.
Tóm lại, về yiddish, hắn ta chỉ biết những tiếng tương tự với tiếng Đức.
Còn về Hebrew, hắn ta hầu như hoàn toàn mù tịt.
Là một đảng viên Quốc xã băng sai nồng nhiệt, Adolf Eichmann đã
nghĩ về người Do thái theo các tư tưởng mẫu của Đảng đưa ra và nung nấu
một lòng thù hận người Do thái như Fuhrer Adolf Hitler của hắn ta. Hắn ta
đã cùng các bạn tham dự những cuộc tấn công nhỏ vào người Do thái trên
các đường phố và những cuộc gào thét kết thúc bằng cuộc bạo hành chống
Do thái. Nhưng chẳng có gì đặc biệt để có thể chỉ định hắn ta đảm trách
những trách nhiệm to lớn trong tương lai của một kế hoạch đã đưa đến việc
tàn sát sáu triệu người Do thái. Chính sự chó nhảy bàn độc tình cờ đã đẩy
hắn ta lên những nấc thang cao nhất để biến hắn ta thành người chỉ huy thi
hành chương trình tận diệt.
May mắn đã đến với hắn ta năm 1934, và hắn ta chụp ngay cơ hội để
khai thác. Ngày 1 tháng 10 năm ấy, với cấp bậc trung sĩ SS, sau một thời
gian huấn luyện thường và các công việc văn phòng chẳng mấy sáng sủa tại
Passau và Dachau, hắn ta được thuyên chuyển đến Bá linh, tại Bảo tàng
viện Do thái một cơ sở tuyên truyền hoạt động tại Tổng hành dinh của S.D.
Tháng chín năm 1939, S.D. cơ quan An ninh phải hiệp nhất với S. P., Cảnh
sát đặc biệt, để trở thành Cơ quan R.S.H.A. (Reichssicher-heitahauptamt),
và thật sự đó là một tổ chức dữ dội.