quý báu của một dòng chảy như thế, thậm chí cả dòng chảy vẩn đục trượt
trong dòng qanat trôi qua một lòng chảo sa mạc. Báu vật.
Một người tùy tùng tiến đến từ đằng sau với tiếng ho tế nhị.
Paul đưa tay ra nhận bảng magna với duy nhất một tờ giấy kim loại trên đó.
Chàng cử động lờ đờ như dòng nước kênh qanat. Thị kiến vẫn chảy, nhưng
chàng càng lúc càng thấy mình miễn cưỡng trôi theo nó.
“Thứ lỗi cho thần, thưa Bệ hạ,” người tùy tùng nói. “Hiệp định Semboule -
Chữ ký của Người?”
“Ta vẫn đọc được!” Paul gắt. Chàng nguệch ngoạc “Hoàng gia Atreides”
vào đúng nơi ký rồi trả lại cái bảng, dúi nó thẳng vào bàn tay chìa ra của
người tùy tùng, nhận thấy nỗi sợ hãi mà hành động này gây ra.
Người tùy tùng lủi mất.
Paul quay đi. Miền đất xấu xí cằn cỗi này! Chàng tưởng tượng nó thấm
đẫm ánh mặt trời và nóng hừng hực ghê gớm, nơi của cát trượt và bóng tối
chìm đắm trong các bể bụi, gió ma quỷ thổi tung tóe những đống cát nhỏ
xíu qua mặt đá, cái bụng thon thả của chúng đầy pha lê hoàng thổ. Nhưng
đây cũng là miền đất phì nhiêu: to lớn, bung ra khỏi những nơi nhỏ hẹp là
cảnh hoang vắng sau khi bão đi qua, thành thành lũy lũy vách đá và các
đỉnh núi xiêu vẹo.
Tất cả nó cần chỉ là nước... và tình yêu.
Cuộc sống gò những thứ nóng nảy vô giá trị thành hình thái vận động thanh
nhã, chàng nghĩ. Đó là thông điệp của sa mạc. Chàng sững người khi nhận
ra sự đối lập. Chàng muốn quay sang đám tùy tùng nhung nhúc ở cổng
sietch mà hét lên: Nếu các ngươi muốn thứ gì đó để thờ phụng, hãy thờ
phụng sự sống - toàn bộ sự sống, cho đến từng mẩu trườn bò cuối cùng.
Chúng ta đều ở trong điều tươi đẹp này!