“Hầu hết còn chẳng nghĩ tới chuyện đó,” Farok trả lời. “Họ nghĩ về cuộc
Thánh chiến cũng như tôi đã nghĩ về nó - hầu hết bọn họ. Đó là một nguồn
trải nghiệm, phiêu lưu và tài lộc lạ lùng. Cái chốn địa hào dơ dáy mà tôi
đang sống này” - Farok chỉ cái sân - “tốn sáu mươi lida hương dược. Chín
mươi kontar! Đã từng có lúc tôi thậm chí còn không tưởng tượng ra nổi sự
giàu có tới mức này.” Ông lắc đầu.
Phía bên kia sân, cậu thanh niên mù dạo những nốt nhạc của một bản ballad
ái tình trên cây đàn chín dây.
Chín mươi kontar, Scytale nghĩ. Thật lạ lùng. Giàu nứt đổ vách, rõ ràng là
vậy. Ngôi nhà nhỏ của Farok sẽ là lâu đài ở nhiều thế giới khác, nhưng mọi
thứ đều là tương đối, kể cả đơn vị kontar. Như Farok đây, liệu ông ta có
biết từ đâu ra hệ đo lường mà ông ta dùng để đo đống hương dược này
không? Có bao giờ ông ta tự nghĩ rằng từng có thời một kontar rưỡi không
quá sức tải của một con lạc đà? Có lẽ là không. Farok hẳn thậm chí còn
chưa bao giờ nghe tới lạc đà hay thời đại Hoàng kim của Trái đất.
Với những lời nói hòa nhịp đến kỳ quặc với giai điệu cây đàn chín dây của
con trai, Farok nói: “Tôi từng sở hữu một con dao pha lê, những vòng nước
mười lít, cây thương từ đời cha truyền lại, máy pha cà phê, một cái lọ thủy
tinh đỏ lâu đời hơn bất cứ ký ức nào ở sietch. Tôi có phần trong số hương
dược chúng tôi thu được, nhưng không có tiền. Tôi giàu có mà không hề
biết. Tôi đã có hai người vợ: một người thô xấu mà tôi thương yêu, một
người ngu xuẩn và ngoan cố, nhưng có gương mặt và dáng hình của thiên
thần. Tôi từng là một vị Naib người Fremen, người cưỡi sâu cát, bậc thầy
về cát và thuyền lớn.”
Người thanh niên bên kia sân tăng nhịp khúc nhạc.
“Tôi từng biết nhiều điều mà không cần phải nghĩ về chúng,” Farok nói.
“Tôi biết có nước sâu dưới cát, bị trói buộc ở đó bởi những Ngài Tạo Bé.
Tôi biết tổ tiên mình đã hiến tế trinh nữ cho Shai-hulud... trước khi Liet-
Kynes ngăn chúng tôi lại. Chúng tôi dừng lại như vậy thật sai lầm. Tôi đã