bệnh, thì câu chuyện cũng diễn ra y hệt thôi. Những bệnh đơn gen, tức là
những bệnh chỉ do một gen gây ra, có thể được kiểm soát khá dễ dàng,
nhưng bất kỳ loại bệnh nào có thêm chiều tương tác cao hơn đều không thể
kiểm soát được.
Việc tìm hiểu cấu tạo gen của một đơn vị sẽ không bao giờ cho phép chúng
ta hiểu được hành vi của bản thân đơn vị đó.
Xin lưu ý rằng những gì tôi viết ở đây không phải là một ý kiến đơn thuần,
mà là một thuộc tính toán học rõ ràng.
Phương pháp trường trung bình
là phương pháp sử dụng mức độ tương
tác trung bình, ví dụ giữa hai người, rồi sau đó khái quát hóa lên cho cả
nhóm – điều này chỉ khả thi nếu không tồn tại sự bất đối xứng nào. Chẳng
hạn, Yaneer Bar-Yam
đã vận dụng sự thất bại của lý thuyết trường trung
bình vào giải thích cho sự thất bại của lý thuyết tiến hóa về gene vị kỷ
được ủng hộ và phổ biến bởi những bộ óc nhà báo hiếu chiến như Richard
Dawkins
và Steven Pinker, vốn thành thạo tiếng Anh hơn là lý thuyết xác
suất. Ông đã chỉ ra rằng những đặc tính cục bộ là không đáng tin cậy và cái
gọi là toán học dùng để chứng minh gen vị kỷ lại ngây thơ và nhầm lẫn một
cách thảm hại. Một cuộc tranh cãi lớn đã xảy ra xung quanh công trình
nghiên cứu của Martin Nowak
và các đồng nghiệp (trong đó có nhà sinh
vật học E.O. Wilson
) về những khiếm khuyết nghiêm trọng trong lý
.
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Phải chăng hầu hết những gì chúng ta đã đọc được
về những tiến bộ trong các ngành khoa học hành vi đều là thứ bỏ đi? Có khả
năng là như vậy. Nhiều người đã vô cớ bị kết tội là phân biệt chủng tộc, kỳ
thị chủng tộc, và đủ thứ khác nữa. Vận dụng tế bào automat, một kỹ thuật
tương tự kỹ thuật tái chuẩn hóa, từ vài thập niên trước Thomas Schelling
đã chỉ ra rằng một khu vực dân cư có thể bị phân hóa mà không cần phải có
bất cứ một người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nào sinh sống trong
cộng đồng đó.