trên mặt hồ.
Sau đó, tôi yêu cầu chị ta hát lại một lần nữa bài hát về loài chim đổi
mùa. Chị còn dịch cả lời cho tôi. Trở về khách sạn, tôi ghi lại bài hát theo
trí nhớ, sau khi đã chuyển nó thành thơ bằng tiếng Avar.
…Phải rồi, mùa xuân đã đến với Đaghextan. Nhưng tôi vẫn cứ nghĩ mãi:
không biết hầu tước Nubếc Tarkôpxki ấy có liên quan gì tới bài ca về loài
chim đổi mùa này. Một kẻ sống giữa thủ đô Têhêran của Hoàng đế Iran như
ông ta, thì cần gì phải nhớ đến mặt trời trên đỉnh núi, bởi lẽ ông ta đã là một
viên đại tá bỏ chạy khỏi xứ sở cách mạng, để trốn tránh sự trừng phạt của
Đaghextan. Làm sao mà ông ta có thể cảm thấy được nỗi buồn nhớ quê
hương?
Khi mới sống ở Iran, Tarkôpxki nói: “Điều xảy ra với tôi ở Đaghextan là
sai lầm của số phận, và tôi sẽ trở về đấy để sửa chữa sai lầm ấy”. Cùng với
đám bạch vệ chạy ra nước ngoài ở đấy, ngày nào Tarkôpxki cũng ra bờ biển
Caxpie để săn đón tin tức mới từ miền Đaghextan. Nhưng lần nào bọn họ
cũng chỉ thấy lá cờ đỏ phần phật bay trên cột các con tàu bơi trên biển
Caxpie. Về mùa thu, khi nhìn những đàn chim bay từ phương bắc tới, vợ
ông ta buồn rầu cất tiếng hát. Bà cũng đã hát bài hát về loài chim đổi chỗ
theo mùa. Dạo đầu, hầu tước Tarkôpxki đã rất khó chịu khi nghe bài hát đó.
Năm tháng trôi qua. Các con ông đã lớn, còn ông thì mỗi năm một già
thêm. Ông hiểu rằng mình đã vĩnh viễn mất Đaghextan. Ông hiểu rằng một
số phận khác đã đến với Đaghextan và đất nước này đã chọn cho mình con
đường đi duy nhất đúng. Đến lúc ấy, vị hầu trước già nua nọ đành cũng bắt
đầu khe khẽ hát bài ca về những đàn chim đổi mùa.
Bố tôi nói:
- Đaghextan không đi với những kẻ nào không đi với nó
Abutalíp nói thêm: