Năm Mậu Ngọ, người nước Xiêm, gây chiến tranh với nước Diến Điện, xin
quân cứu viện ở nước ta, vua sai Trương cùng Nguyễn Hoàng Đức đi quân
đến bể Côn Lôn, nghe tin quân nước Diến đã rút, bèn trở về
Năm Kỷ Mùi, đại binh tiến đánh Quy Nhơn, Trương cùng Nguyễn Văn
Khiêm tuần phòng ngoài biển Quảng Ngãi, quân đến Tân Quan, đánh tuần
kiểm của giặc là Trần Viết Kết, đốt 5 sở đồn giặc (Sa Hoàng, Mân Khê, Mỹ
Ý, Sa Kỳ, Thái Cần), và lấy lại được Quy Nhơn, Trương đóng giữ cửa biển
Thi Nại, bỗng lại rút về Cù Huân, hợp với các tướng ở trấn Diên Khánh là
Nguyễn Văn Tính, Đặng Trần Thường đóng giữ.
Năm Canh Thân, tướng giặc là Phạm Văn Điềm cướp Phú Yên, Trương sai
Mai Tiến Vạn giữ Tam Lĩnh, dâng biểu tâu: cho là Phú Yên là nơi giặc tất
phải tranh, được hay mất không đáng lo, mừng. Nếu phái thêm trọng binh
tiếp ứng, việc phòng bị Diên Khánh tất phải đơn sơ. Vả lại việc quân biến
chuyển muôn trạng, nghìn hình, e có sự lo âu về sau, xin trước hết phải giữ
vững căn bản, đề phòng chớ có khinh thường làm việc, đợi dò xét tình hình
của giặc, rồi sau tiến đánh chưa muộn.
Mùa hạ năm ấy, thuyền giặc vào Vân Phong; Trương sai nhánh quân đi
trước đánh đuổi được, rồi sau theo vua tiến đóng Cù Mông nghe tin hơn
150 chiếc thuyền lương của giặc đậu ở cửa bể Đề Di, Trương lập tức đi đón
đánh; giặc bỏ thuyền trốn, Trương lấy được hết cả lương thực, khí giới
không biết bao nhiêu mà kể.
Năm Tân Dậu, đại binh đánh Thi Nại, Trương được khẩu hiệu của giặc,
trống canh ba đêm ấy, cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, chèo qua thuyền lớn
của giặc, đến miếu Tam Tòa, chém được Đô đốc là Trà, đốt luôn thuyền
giặc rất nhiều. Lê Văn Duyệt đem đại binh tiếp đến, quân giặc tan cả. Vua
sai Trương điều khiển thủy binh tiến đánh giặc ở Quảng Ngãi, Quảng Nam,
cho Vệ úy vệ Tuyên phong là Phan Văn Đức, Vệ úy vệ Phấn dực là Tống
Phúc Lương, Chánh vệ vệ Thuận vũ là Vương Văn Học coi thuyền hiệu