lại trấn thành Gia Định. Năm Canh Thân mùa hạ theo vua đi đánh giặc ở
Quy Nhơn, thuyền vua đến cửa biển Cầu Huân, sai ông ở lại trấn Diên
Khánh, rồi sai đem quân trong bộ thuộc tiến đóng đồn Hội Án, bỗng chốc
lại gọi đến hành tại. Năm Tân Dậu mùa hạ ông mất ở trong quân, tuổi 20,
tặng là Đặc tiến phụ quốc tướng quân, Thiếu úy, Quận công, thụy là Đôn
Mẫn, không có con thừa tự. Ông là người tinh anh nghiêm nghị, mọi người
đều sợ. Ông có một cái búa bằng đồng, khi ra đi sai người mang đi theo,
người ta gọi là Phủ công (ông hay mang búa đi theo). Năm Gia Long thứ 3,
cùng Anh Duệ Hoàng thái tử Cảnh hợp thờ ở tả vu nhà Thái miếu. Năm thứ
13, gia tặng Hoài công, thờ ở đền Triển Thân. Năm Minh Mạng thứ 13 gia
tặng là Tôn nhân phủ tả tôn chính, phong là Thuận An công. Năm Thiệu Trị
thứ 3 đổi thờ ở đền Thân Huân.
Hoàng tử tên là Tuấn: Con thứ ba của Thế Tổ, mẹ đẻ là Chiêu Dung họ
Lầm, năm 12 tuổi thì chết.
Kiến An vương tên là Đài: Con thứ năm của Thể Tổ, là em cùng mẹ với
Thánh Tổ. Ông học rộng hay thơ. Năm Gia Long thứ 16 phong là Kiến An
công. Buổi đầu năm Minh Mạng, vua từng đến chơi nhà biết ông tiêu rộng,
bổng lộc không đủ, cho 20 quan tiền, dụ rằng: Em phải nghĩ dấy, bổng lộc
của người là mỡ béo của dân tất phải kính sẻn, để nối nghiệp nhà, chớ
hoang phí để hại đức. Ta vì thiên hạ giữ của, há có thể thưởng dùng của
công để làm ơn riêng được ư?
Năm Minh Mạng thứ 14, ông sai thuộc viên trong phủ là Lê Văn Quát đi
Hà Nội mua ngựa, Quát đi tắt lên Cao Bằng, yêu sách của dân, tuần phủ
Lạng Sơn là Hoàng Văn Quyền đem việc ấy tâu vua biết, Quát phải tội xử
tử, ông phải phạt bổng một năm. Năm ấy, Lê Văn Khôi làm phản, ông lấy
cớ người vợ lẽ là cháu gọi Khôi bằng cậu, xin truất làm tì. Vua bảo rằng:
cháu gọi bằng cậu là bên ngoại, luật cũng không khép tội nay đã truất làm
tì, chuẩn cho được đoàn tụ. Và về việc ấy em không can hệ gì, bất tất phải
suy sợ quá làm gì nên cứ chiếu lệ thưởng chầu hầu. Ông cúi đầu tạ ơn.