nằm rơm gối đất, sớm tối không rời. Cảnh nhà neo đơn nghèo túng mà vc
sống nuôi chết chôn cất rất là hết sức, làng mạc đều khen là hiếu. Năm
Minh Mạng thứ 4 (1823), hậu thưởng cho tiền bạc và đoạn, xuống chiếu
cho nêu tấm biển ở cửa có 4 chữ: "Hiếu thuận khả phúng" (hiếu thuận đáng
làm gương). Năm thứ 8, tới kinh chầu lạy, được triệu vào ra mắt, thường
cho bạc lạng, áo quần rồi cho về. Con là Triệu cũng có hiếu như bố, khi bố
ốm đau, sớm tối không rời bên cạnh, bố không ăn, Thiệu cũng không ăn,
lòng hiếu thảo rất là chu chuẩn. Năm Minh Mạng thứ 18, thưởng cho 20
lạng bạc, 2 tấm đoạn và bức biển ngạch có 4 chữ: "Khắc thiệu hiếu phong"
(hay nối được nết hiếu thảo của cha mẹ). Năm thứ 21, để tang bố thương
xót hết lòng, làng xóm cũng phải cảm động. Làm nhà ở mộ ba năm. Năm
Thiệu Trị thứ 3, thưởng thêm cho 10 lạng bạc, 2 tấm đoạn và 1 bó lụa màu.
Nguyễn Văn Liễn
Người huyện An Phúc, trấn Bình Thuận. Năm lên 8 tuổi bố chết, mẹ giữ
tiết. Liễn phụng dưỡng mẹ hết lễ, khi ăn uống đều quỳ dâng lên, mùa đông
tháng hạ, sớm thăm tối viếng, động việc gì cũng tuân theo lời dạy bảo đời
xưa. Khi mẹ mất, làm nhà ở cạnh mộ, trong khi để tang vẫn học lễ, ngày rỗi
dạy trẻ học, không uống rượu ăn thịt, hết ba năm mới về nhà. Năm Minh
Mạng thứ 8 (1827), xuống chiếu cho bạc và đoạn, lại nêu biển ngạch ở cửa.
Nguyễn Cư Sỹ
Người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, là cháu của công thần khi mới
dựng nước là Tân Minh hầu Nguyễn Cư Trinh. Năm Minh Mạng thứ 3
(1822), Cư Sỹ mới 14 tuổi, bố là Cư Tuấn làm Cai bạ doanh Quảng Trị, vì
tham tang bị tội đồ, Cư Sỹ xin thay hình phạt cho cha, vua y cho, bắt xích
lại cho phát phối đi làm việc. Cư Sỹ vui vẻ chịu, không có dáng ngần ngại
một chút nào. Vua nghe tin khen và nói rằng: Cư Trinh được người cháu
khá như thế! Bèn tha cho về. Kịp khi về nhà, cha mẹ ốm đau, sớm tối thuốc
thang hầu hạ nuôi nấng, không chút trễ nải. Năm Minh Mạng thứ 8, xuống
chiếu nêu biểu ngạch ở cửa là: "Hiếu hạnh khả phúng" (hiếu hạnh đáng làm