Người huyện Bạch Hạc, trấn Sơn Tây. Khi trước bố là Đình Cửu lấy vợ
người họ Lê, sinh ra Tế và Quý Đinh; người vợ lẽ của cha cũng họ Lê lại
sinh con trai tên là Soạn, Đình Cửu say yêu, nên gia sản đều giao cho vợ lẽ
trông coi, người vợ lẽ cậy được yêu mến, sinh ra keo bẩn và ghen tuông, Tế
và Đinh theo mẹ ra ở riêng, kinh doanh lấy để sinh sống, thỉnh thoảng đến
thăm viếng cha. Tế lại kính người vợ lẽ của cha, yêu em thứ, người không
có ai nói vào đâu được. Mẹ ốm anh em hầu hạ thang thuốc, đêm ngày
không trễ nải; khi mất chôn cất xong lại về cùng ở với cha, kính hầu người
vợ lẽ của cha như là mẹ, hiếu kính đầy đủ, người vợ lẽ của cha cũng cảm
hoá, đổi nết ghen ghét thành ra hiền từ, coi Đình Tế như con mình đẻ ra.
Lại người chú họ là Nguyễn Duy Trường nhà nghèo khổ, bọn Đình Tế đem
điền sản về phận mình chia cấp cho, không chút lận tiếc, ông bà ngoại nhà
cũng nghèo, không có con nối, bọn Đình Tế chọn người đồng phái làm thừa
tự, lại đem điền sản về phận mình đặt ruộng ký kỵ để cung việc giỗ tết, làng
xóm cho là người có nghĩa. Năm Minh Mạng thứ 8, ở bộ bàn định liệt vào
nghĩa phu kiêm hiếu tử vào hạng bình, thưởng cấp cho bạc và đoạn, nêu
khen biển ngạch ở cửa.
Nguyễn Văn Trình
Người huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Tính người thuần cẩn, có hiếu
hạnh, mẹ có bệnh đau bụng lâu năm không khỏi, thầy thuốc bảo rằng: Đó là
ăn nhằm thịt chim công, phải lấy được dạ dày con nhím thì chữa khỏi,
Trình một mình vào trong núi bắt nhím không được. Bèn mật khấn thần kỳ;
đêm nằm mộng thần bảo rằng: Ngươi vì mẹ tìm thuốc, không kiêng tránh
ác thú, đó là hiếu hạnh, cho ngươi một con nhím. Ngày hôm sau, quả nhiên
bắt được một con nhím ở đằng Đông miếu, đem về làm thuốc, bệnh của mẹ
khỏi liền. Năm Minh Mạng thứ 3, người bố bị giặc bắt, đòi chuộc 150 lạng
bạc. Trình bán hết gia sản mới được 90 lạng bạc, đem tới xin chuộc. Giặc
cho là bạc chưa đủ số, muốn đem đi giết, Trình kêu khóc xin chịu chết thay.
Giặc thấy là người hiếu tha cho về. Trình cõng bổ dời tới ở phủ thành buôn