Năm thứ 5, tháng 6, Phật vương nước Xiêm là Chiêu Lục Thư chết (ở ngôi
16 năm) con là Sa Đa Bô Đinh nối ngôi, phong cho em là Miễn Múm La
Thiệp làm Nhị vương. Tháng 7 nhuận, Xiêm sai sứ sang báo tang. Vua bảo
rằng: Nước Xiêm cùng ta như môi với răng, nay trong nước có vua chết
đáng thương. Bèn nghỉ chầu 3 hôm. Sai sứ sang phúng.
Năm thứ 7, tháng 7, Xiêm lại sai sứ sang tạ ơn và báo tang tổ mẫu nước ấy.
Vua dụ rằng: " Sứ nước người đến chuyến này, có một việc không hợp lễ;
tạ ơn là hợp lễ mà báo tang là không hợp lễ. Trẫm lấy tình lân hiếu không
muốn cự lại ra mặt, về nói với quốc vương ngươi biết". Nhân cho đồ tặng
và đưa phẩm vật để phúng rồi đưa về. Lại sai bộ Lễ biên thư phúc lại báo
tang là không phải lễ.
Năm thứ 8, tháng 3, nước Vạn Tượng cùng với nước Xiêm đánh nhau,
quân của A Nỗ bị thua, chạy sang Tam Động. Trấn thần Nghệ An đem việc
tâu lên, triều đình sai quan đi kinh lược ngoài biên, đưa A Nỗ về trú ở Nghệ
An (việc nói rõ ở chuyện nước Vạn Tượng). Thuộc Man của Xiêm là Hân
Ma Lạt, trước đây bị nước Vạn Tượng đánh, đem bộ lạc hơn 200 người đến
nơi biên giới của ta, dâng voi và xin phụ thuộc nước ta. Vua sai viên Quản
đạo Cam Lộ là Tống Văn Uyển chọn chỗ đất rộng cho ở, mà trả lại voi đem
dâng. Đến lúc Vạn Tượng bị thua, Ma Lạt xin về đất cũ, sai cho về. Lại dân
thuộc Man của Xiêm bị đói đến vài ngàn người, phiên lưu sang ước Chân
Lạp, hái lá nấu bèo để ăn. Thành thần Gia Định đem việc tâu lên. Dụ rằng:
Dân Xiêm phiêu lưu dời sang nhiều như thế, kho chứa của nước Chân Lạp
không có mấy lấy gì mà cưu mang được. Trẫm coi dân nào cũng thế, sao nó
điềm nhiên ngồi nhìn mà không cứu ư? Bèn sai phát ra 4000 phương gạo và
200 phương muối để chẩn cấp, vừa gặp sứ Cao Man từ nước Xiêm về,
người Xiêm đem quốc thư gửi nhờ đưa đến triều đình. Việc đến tai vua, vua
nói: Ta cùng nước Xiêm là nước lân hiếu, nay tiếc một người sứ thần, nhân
tiện gửi thư, sao có thể nhận bừa được. Bèn sai thành thần tư cho Cao Man
trả lại bức thư ấy.