lớn thì ôm Phật thề bồi và chất vấn ở sư rồi sau mới quyết. Về thổ sản:
vàng, sơn đen, chiên tơ đỏ, vải trắng, trừu tơ đỏ, giấy diến, cau tươi, voi,
ngựa, rượu thụ đầu (113), gấm dệt bằng bông, cây đâu la và dầu mỏ.
Nam Chưởng
Có tên là nước Lao Long, tục gọi là Lão ọuà-gia. Năm Vĩnh Lạc (114) thứ
3 nhà Minh mới vào cống, mới đặt ra ty Lão Qua nhân dân Tuyên úy sứ.
Nước An Nam, năm Kỷ Hợi, Lê Thánh Tôn thứ 10 (Minh Thành Hóa năm
thứ 15 , 1479) sai bọn Lê Thọ Vực đem 90.000 quân chia 3 đường tiến phá
nước Ai Lao, rồi vào cõi Lão Qua, giết Tuyên úy là Đao Ban và hai người
con, người con út là Phạ Nhã Trại chạy sang nước Bát Bách, người Minh
cho nối chức Tuyên úy. Năm Ung Chính (115) nhà Thanh thứ 8, sai sứ sang
cống, sau thường sang cống nhà Lê, tương truyền đến đời Chiêu Ấn, Chiêu
Ấn sinh 4 con, trưởng là Nụ Xạ, thứ là Chiêu Xú, thứ nữa là Chiêu Phong,
thú nữa là Chiêu Chiêm. Chiêu An chết, Chiêu Phong nối lập. Chiêu Phong
chết, con là Ôn Mãnh mới 3 tuổi, Nụ Xạ bèn giữ lấy nước. Quân Vạn
Tượng đến đánh, bắt Nụ Xạ và mẹ Ôn Mãnh đưa về Vạn Tượng rồi sau tha
Nụ Xạ về mà giữ lại mẹ con Ôn Mãnh.
Năm Tân Hợi, Tây Sơn đến đánh nước Vạn Tượng, mẹ con Ôn Mãnh thừa
cơ trốn về, lại cùng Nụ Xạ tố cáo với nước Thanh, vua Thanh ban cho sắc
ấn. Ôn Mãnh bèn chiêu dụ lính man đánh Nụ Xạ, khi tới Mường Nhi, Nụ
Xạ đánh lại, Ôn Mãnh thua chạy trốn, thường qua lại ở quãng Mang M,
Mang Lựu, không có chỗ ở nhất định. Sau mang sắc ấn đến ngụ ở châu
Chiêu Tấn trấn Hưng Hóa.
Bản triều Gia Long năm đầu mùa thu, Ôn Mãnh nghe đại binh đã định dược
Bắc Hà, bèn nói với Trấn mục Hưng Hóa đến hành tại Thăng Long lạy
mừng, vua cho là trong nước mới định, chưa rỗi xử trí, lại sai về ngụ ở châu
Chiêu Tấn. Năm thứ 8, Bắc Thành thần đưa Ôn Mãnh vào kinh, vua cho
Ôn Mãnh từng chịu sắc ấn của nước Thanh đưa cho về Trung Quốc, để tự
xử trí lấy, bèn đưa Ôn Mãnh đến cửa Lạng Sơn ở đó đợi chỉ. Người Thanh