1 chánh sứ, 1 phó sứ, 2 đầu mục, 1 thông ngôn, 3 người quân đi theo, cộng
8 người. Còn đều ở lại ngoài biên lấy thưởng). Khi sứ tới kinh, đem quốc
thư và phương vật dâng lên. Trong thư nói: Trong nước có việc, lệ cống lỗi
hẹn và nói lưu dân ở Mang Cai thuộc Trấn Ninh xiêu tán đến nước ấy cũng
đã lâu năm đều yên nghiệp làm ăn cả rồi, về việc ở yên một chỗ ngại di
chuyển, cũng là thói thường của lòng người, xin để cho ở nước ấy cho được
yên nghiệp. Vua y cho, nhưng truyền dụ cho bọn phòng ngự đồng tri ở Trấn
Ninh được biết. Lại cho là trống đồng không phải nước ấy sản xuất ra, sắc
cho từ nay tới kỳ cống hiến cho lấy vật thổ nơi khác sung làm lễ cống chứ
không câu nệ theo lệ trước. Khi sứ về, hậu ban cho rồi bảo về. Về sau đến
năm có lệ cống không đến cống nữa.
Năm thứ 19, bèn sai người trong nước là bọn Tạo Khâm Phấn đem thư viết
bằng lá cầu khẩn xin cống. Quan ở biên giới tâu lên, sai Lang trung bộ là
bọn Nguyễn Khắc Trạch hội đồng với tỉnh thần là bọn Nguyễn Đình Tân
vặn hỏi, thời Tạo Khâm Phấn toàn trả lời quanh co lúng túng, bèn không
chuẩn cho tiến cống nữa và đuổi ra khỏi cõi. Sau không đến cống nữa.
Quốc thành nước ấy đóng ở Mang Long, bên tả tới sông Khung để làm
hiểm trở, phía Đông giáp Trấn Ninh, phía Tây đến Xiêm La, Diến Điện,
phía Nam giáp Vạn Tượng, phía Bắc giáp Vân Nam, dân số không kém 2
vạn người, tính người dữ tợn, lấy vẽ mình làm đẹp. Chợ và cửa hàng giao
dịch bằng bạc, không có bạc lấy tiền ốc để thay (tiền ốc 100 đồng là 1 tiền,
1000 đồng là 1 quan) không có thợ chế đúc đồ binh, phàm gươm dao súng
lớn súng nhỏ đều mua ở nước khác, thổ sản thì có vàng, đồng đỏ, sắt sống,
vải trắng, cánh kiến, sáp vàng, mật ong, lưu hoàng, diêm tiêu, sa nhân,
muối trắng, giống tê, giống voi, trâu, ngựa v.v …
Chiêm Thành
Khi xưa là nước Hồ Tôn, thuộc bộ Việt Thường thị; đời Tần là huyện Lâm
Ấp, thuộc Tượng quận; đời Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật
Nam. (Sử đời Lương nói: Huyện Tượng Lâm dài rộng độ 600 dặm, khi xưa