đeo đá chết chìm sông Sở, uất ức chảy giọt châu chan chứa vì là tiếc tài
ông, mà xét nỗi oan của ông.
Hoàng thượng lên ngôi năm thứ 9, chuẩn cho lập đền ở Dương Xuân, cùng
thời với anh là Huyện công Hồng Tu. Ông bình sinh trước thuật có các tập
Di Hiên, Hỷ Mặc, Trúc Lâm, Đạo Nam, B
Tương An Quận vương Miên Bảo
Tên tự là Duy Thiện. Con thứ 12 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là An
tần Hồ thị, người ở Do Linh, Quảng Trị, con gái của Văn Chiêu được truy
tặng Hiệu úy Cẩm y. Ông sinh vào năm Minh Mạng thứ 1. Vương có sức
khỏe lạ thường, lúc trẻ thích nghề võ, giỏi bắn súng cưỡi ngựa. Khi lớn, cố
sức đọc sách, thông khắp các kinh sử, có tiếng là thơ hay, càng giỏi về thơ
quốc âm. Làm các điệu hát bằng chữ, phần nhiều có hay, cùng suýt soát với
2 vương Tùng Thiện, Tuy Lý, được vua yêu quý. Năm thứ 20, được sách
phong làm Tương Quốc Công. Năm Thiệu Trị thứ 2, vua ngự giá thăm Bắc
thành, sung ông theo hầu, chầu chực tả hữu cẩn thận, vua khen. Khi vua trở
về, tấn phong làm Tương An Công. Năm Tự Đức thứ 7 ông chết, lúc 35
tuổi, thụy là Cung Nghị, dựng đền thờ ở xã Vạn Xuân thuộc Hương Thủy.
Tuy Lý Quận vương Miên Trinh làm bài văn viếng ông rằng:
"Thương ôi hiền đệ tiếng thơm tốt đẹp, tư cách và thần khí ngang tàng, ánh
sáng của sao phòng thác sinh ra. Chứa điềm lành của núi cao, chung đúc
khí thiêng của sông lớn, đức tốt đẹp như châu ngọc, tính trinh chính như
cây trúc, còn đương khi chơi đùa, danh tiếng đã sớm nổi, tinh thần chí khí
sáng suố
t, công việc làm trong sạch, như phên dậu che đỡ cho nhà vua danh vang
trọng đại, là họ thân của nhà vua, ân sủng vẻ vang, đi ra theo hầu vua, trở
vào chầu sân rồng, nói ra là nghị luận, cầm bút viết thành thơ, có lễ độ với
anh em, có hiếu thảo với mẹ, sớm tối kính hòa, cố theo sửa đức để tiếng
thơm cho Tôn phái, nêuẫu mực cho làng nho, loanh quanh nơi trướng đỏ
(chỗ dạy học), dăn dở sách là da, tìm tòi nghĩa khó, hiểu rõ đạo sâu rộng,
đến chỗ uẩn ác, qua chỗ huyền bí, Sở Vương làm thi truyện chưa trọn (101)
đương nghiên cứu dịch truyện như Bái Hiên Vương, tưởng rằng được chịu