Thương Sơn Công sai thư lại viết rõ đưa chấm, chọn được 2 bài khá nhất,
đều là thơ của Sâm cả, mọi người ngồi ở đấy đều kính phục. Từ đấy tiếng
thơ lừng lẫy, hoặc có người khuyên ra làm quan, Sâm cười để tạ ơn thôi.
Năm Tự Đức thứ 29, Tham biện Nội các là Ngô Quý Đồng cử Sâm là
người có văn học, vua ra đầu đề sai quan sát hạch 2 lần ở viện Tả Đãi Lâu.
(Lần đầu sát hạch về thơ văn, luận, bài phú "đọc thư trướng" (lấy đầu bài
làm vần); nghị làm bài thơ "Thanh thanh lăng thượng bách" của thời có cây
bách cổ xanh xanh trên gò). Lần sau, nghị làm tờ thư của cựu quân sĩ dân 6
tỉnh Nam Kỳ cùng nhau đồng tử xin chuộc lại đất ấy (dùng thể biền ngẫu);
bài luận đầu đề là: "Lục luật sư vạn sự căn bản" (6 luật là căn bả muôn
việc); họa bài thơ của Vương Nguyễn Đình lên lầu thành Phủ Quỳ coi bát
trận đồ (dùng văn "nguyên").Vua khen là có học, thăng bổ hàm Trước tác.
Sâm ở các mới 6 tháng, tiến lui hợp lễ, bổ thụ hàm Thị độc. Vua phê bảo
rằng: Hồng Sâm không có thói quen của công tử một tí nào, thực không hổ
là con một người cha có tiếng.
Năm thứ 33, bổ thụ hàm Thị độc Học sĩ, tham biện việc các thường cùng
Bùi An Niên ứng chế làm bài thơ "Thị các thần" lấy vần "nguyên". Vua phê
bảo rằng: thơ của An Niên có hùng nhưng xét kỹ thì tiếng, vần, khí, vị
không bình đạm bằng Sâm. Ông vẫn được vua khen như thế.
Năm thứ 36, vâng mệnh đi sứ nước Thanh tìm thầy thuốc, về đến Quảng
Nam, đã nghe có quốc tang. Người giữ chính cho là chậm trễ, bắt tội. Phế
đế lập lên đặc biệt miễn tội cho. Sâm vốn là người cương trực, mỗi khi bàn
đến việc lợi hại của nước nhà cùng với người giữ chính có nhiều chỗ khác
nhau. Đến khi Nguyễn Văn Tường, Lê Thuyết chuyên quyền làm việc phế
lập, buộc Sâm vào tội (chép ở truyện Tuy Lý Vương), truất làm người
thường, giam vào ngục, sau đánh thuốc độc chết, khi ấy 44 tuổi. Đến khi
Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế nối ngôi, được truy phục nguyên hàm, lời
trong cáo sắc có câu rằng: Gia pháp của Đông Bình rất hay được mỗi con
đeo 1 quả ấn (99), nghề thơ của Tử Kiến rất hùng, tài đáng tám đấu (100).
Lại có câu rằng: Lưu Tử Chính (Lưu Hướng) thắp đuốc gậy lê soi sáng gác
Hán, khảng khái đấng phong sư tỏ bầy. Khuất Linh quân (Khuất Nguyên)