ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 322

Tự là Chu Sỹ, người Nam Đàn, Nghệ An, tính thành thực, chất phác, có
tiếng là thờ cha mẹ có hiếu. Đỗ tiến sĩ Tự Đức năm thứ 30 (1877), bổ Tri
phủ Tương Dương. Tại chức, lưu đến việc canh nông, mộ dân khẩn ruộng
núi, vỗ về dân Man, tất cả với tấm lòng thành tín, lại dân mến yêu. Sau do
chân Thị giảng sung sơn phòng Phó sứ Nghệ An. Gặp khi quân Man cướp
bóc ở địa giới (phủ) Tương, (phủ) Quỳ, Tài Tuyển đem quân tiến đánh,
người Man đều đến quân đầu thú. Tuyển bèn đóng lại ở Quỳ Châu để chiêu
dụ trấn áp. Có người thấy ở đkhí độc nặng, khuyên Tuyển dời về. Tuyển
nói: "Đạo làm tôi phải tận tụy, khí lam chướng không đáng kể". Đã có lần
bị nước lũ nguồn đột ngột đổ đến, lương thực chuyên chở không kịp, Tuyển
cùng quân sĩ mấy ngày ăn một bữa, nhưng lấy công nghĩa kích thích, họ
cũng đều bền chí. Kiến Phúc năm đầu (1884) vì vất vả quá nhiều sinh bệnh
rồi mất ở trong quân, được truy thụ Hàn lâm viện thị độc.

Hoàng Văn Hoè

Tự là Vương Thực, người Đông Ngạn, Bắc Ninh. Cha là Đĩnh, đỗ hương
tiến, làm quan mãi đến chức Ngự sử rồi ốm, về nhà dạy học.

Văn Hoè lúc trẻ có tiếng hay chữ. Đỗ tiến sĩ Tự Đức năm thứ 33 (1880),
thụ chức Hàn lâm viện Tu soạn. Sau lại thấy học rộng cho mời đến thử
được trúng tuyển, bổ Thị độc lĩnh Tri phủ Kiến Xương. Khoảng niên hiệu
Kiến Phúc, sung bang biện Bắc Ninh thứ vụ. Sau vì đi theo quân thứ không
có công trạng, bị đổi xuống chức làm Kinh diên khởi cư chú. Hàm Nghi
năm đầu (1885) Kinh thành hữu sự, chết trong nạn (nước). Hồi đầu niên
hiệu Thành Thái (1889) được truy thụ trước tác. Anh Văn Hòe là Kỳ, cũng
đỗ hương tiến.

QUYỂN 40

TRUYỆN TRUNG NGHĨA - MỤC I

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.