ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 362

(Phụ: Nguyễn Hữu Quân)

Tự là Thành Chi, trước tên là Đăng, người Lễ Dương, Quảng Nam, lúc bé
thông minh. Đỗ ất khoa kỳ thi Hội năm Tự Đức thứ 2 (1849). Mới đầu bổ
Hàn lâm viện kiểm thảo rồi bổ đồng tri lĩnh huyện Tri Viễn. Làm việc thanh
liêm, công bàng được dân tin phục. Sau vì chậm chạp việc kết nghĩ các án
cướp, bị giáng bổ xuống chánh bát phẩm lĩnh kiểm thảo sung Nội các hành
tẩu. Năm thứ 21 (1868) phái đi theo quân thứ Lạng Bình, chưa bao lâu
thăng Biên tu lĩnh Tri huyện Hương Trà. Sau cất lên Thị độc học sĩ lĩnh Án
sát sứ Hà Nội.

Năm thứ 25 (1872) do nguyên hàm sung Tán tương quân thứ Sơn Hưng. Vì
đồn Đông Lý thất thủ, bị giáng 3 cấp lưu dụng. Rồi lại tiến đánh ở 2 đồn
Đan Hà, Đồng Lũng, hăng hái xông đi trước bị chết trận. Việc tâu lên, vua
thấy là quan văn mà có nghĩa khí, cho truy tặng Thị độc học sĩ. Năm thứ 33
(1880) liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Tiến Gián, ấm thụ Chánh cửu
phẩm sung việc từ trác nha Sơn phòng Nghĩa Định.

Người cùng tỉnh là Nguyễn Hữu Quân tự là Trúc Hiên người huyện Duy
Xuyên đỗ cử nhân khoa đinh mão Tự Đức năm thứ 20 (1867), thi Hội được
dự phân số. Bắt đầu bổ Huấn đạo tỉnh giáo thụ Quảng Trạch. Có đại tang về
nghỉ việc, khi mãn tang đổi lĩnh Nam Sách. Năm thứ 1872) làm thay việc
phủ.

Bấy giờ hơn 90 chiếc thuyền phỉ và hơn 1.300 đồ đảng phỉ ở Quảng Yên áp
đến đánh phủ thành. Quân cùng với người làm việc Lãnh binh Hoàng Văn
Trữ lên thành chống cự bị giặc giết chết, được gia tặng Thị giảng và cũng
liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Hữu Đệ được ấm thụ đãi chiếu.

Đặng Văn Tại

(Phụ: Trần Văn Xuân)

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.