ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 366

được quyền Phó lãnh binh quan ở ngay quân thứ. Năm thứ 24 (1871), theo
quân thứ Hải Dương đóng giữ phủ Nam Sách. Sau đánh nhau với giặc bị
chết, được truy tặng Minh Nghĩa đô úy phó lãnh binh quan Con là Chất, bổ
Sơn Tây Hữu hùng cơ suất đội; Dật Kế, do chân võ cử cầm quân.

Nguyễn Tích

(Phụ: Nguyễn Xuân Hào)

Tự là Hy Phủ, người Lệ Thủy, Quảng Bình. Tự Đức năm thứ 18 (1865) thi
Hội đỗ phó bảng. Do chân Hàn lâm bổ đi đồng Tri phủ Vĩnh Tường rồi
chuyển về Hình bộ Bắc điển ty chủ sự, sau lĩnh Lang trung. Gặp khi giặc
biển hạt Hải An nổi lên, quan quân đi đánh dẹp thì đình cử Tích là người
dũng cảm mưu lược sung Bang biện quân vụ. Tích được mệnh, cũng tự
mong sẽ lập công nơi cương trường, khi ở quân thường hăng hái đánh giặc.
Năm thứ 29 (1876), đánh nhau với giặc, giặc nhiều không địch nổi mà bị
chết, được tặng Chánh tứ phẩm liệt thờ vào Trung nghĩa từ.

Lại người (Bố) Chính, (Quảng) Bình là Nguyễn Xuân Hào, cũng là quan
văn chết về (quốc) sự. Xuân Hào, đỗ hương tiến năm Tự Đức thứ 29
(1876). Do chân Tư vụ bổ đi Tri huyện Thanh Hà. Đến hồi đầu niên hiệu
Đồng Khánh được cất lên Tri phủ Bình Giang. Rồi sau Bang biện Hải
Dương tỉnh vụ, mang quân đi bắt đảng phỉ, bị phỉ giết chết, được tặng Hàn
lâm viện thị độc.

Nguyễn Cao

Người Quế Dương, Bắc Ninh. Cha là Hanh, do chân hương tiến đi Tri
huyện Thủy Đường. Cao là người khảng khái, chuộng khí tiết, đỗ giải
nguyên năm Tự Đức thứ 20 bổ Tri huyện An Dương. Năm thứ 36 (1883),
thuyền binh Pháp từ Hải Phòng tiến lên Hải Dương, sai bắt dẫn đường, bèn
nhảy xuống sông mà chết. Việc tâu lên, đến đầu niên hiệu Kiến Phúc
(1889) được tặng Hàn lâm viện thị giảng. Con là Cơ, đỗ cử nhân.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.