ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 368

Trần Doãn Đức

Người La Sơn, Hà Tĩnh. Cha là Thăng, nhà khá giả, ưa làm điều thiện.
Thấy làng mình vốn chất phác, ít văn (học), bèn khảng khái bỏ tiền ra dựng
văn từ, lại mời thầy về dạy con học để làm gương.

Doãn Đức lúc nhỏ chăm học, đỗ hương tiến Minh Mạng năm thứ 9 (1828),
làm đến Tri phủ Tĩnh Gia. Đức thường nghĩ đến nối chí cha, khắc in nhiều
sách thiện phát đi các nơi. Sau vì tuổi già về hưu ở nhà càng vui lòng làm
việc thiện không biết chán. Mất năm 78 tuổi, người làng phụ thờ vào từ
làng.

Lê Huy Bích

Tự là Huyền Chương, người Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Khi trẻ gặp loạn Tây
Sơn, đi ẩn náu. Đến Minh Mạng năm thứ 7 (1826) Kính Giang hầu Nguyễn
Đức Nhuận cho vào hàng ẩn dật, tiến cử về triều. Có mệnh đến mời, không
từ chối được, khi đến triều, lấy cớ ốm đau khẩn thiết xin từ. Sắc ban cho
chức Hàn lâm viện đãi chiếu rồi cho về. Từ đó, đóng cửa dạy học, học trò
theo nhiều. Có làm ra 1 bộ "Kỷ sự tân biên". Hồi đầu niên hiệu Tự Đức
(1848) cho người đi tìm mua sách cũ, gia đình này đem dâng lên, được tàng
trữ vào thư viện.

Con là Như Đỉnh, trước tên là Huyễn, lúc trẻ có tiếng tài giỏi. Thiệu Trị
năm thứ 7 (1847) đỗ hương tiến, đến khi bị duyệt lại cho là thiếu qui thức,
bị truất. Tự Đức năm thứ 5 (1852) lại đỗ giải nguyên (đỗ đầu thi hương)
làm đến Tri huyện. Tính nóng thẳng, lại cứng cổ, luôn trái ngược ý với
quan trên, bị đổi giáng chức xuống Huấn đạo, bèn cáo quan về dạy học, học
trò đến theo nhiều.

Năm thứ 30 (1877) quan trấn thủ lại vì văn học tiến cử, được cất lên lĩnh
Đốc học Khánh Hòa, sau đổi đi Nghệ An. Qua mấy năm rồi bị bệnh về rồi
chết Con là Như Thâm, đỗ tú tài.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.