ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 369

>

Lê Quý Kiểm

Tự là Bá Tu, người Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Nhà rất nghèo, cha mẹ mất
sớm, ở với chú. Nhà chú chuyên nghề nông, có đón thầy dạy con học, Quý
Kiểm bấy giờ đã 18 tuổi sáng sớm đi chăn trâu, tối về hỏi nghĩa sách, cứ
qua mắt là nhớ. Thầy học lấy làm lạ, khuyên người chú cho theo học, vì
vậy chuyên chú đến kinh sử.

Năm 22 tuổi ông đỗ tường sinh. Sau càng ứng cử càng đỗ tường sinh rất
nổi tiếng hay chữ, ngang với người cùng huyện là Lương Kim Huyễn, học
trò theo học nhiều. Bấy giờ có câu rằng: "văn Kiểm, phú Huyễn" nghĩa là
nói về món sở trường của họ vậy.

Tự Đức năm thứ 5 (1852) đỗ hương tiến. Tính thuần cẩn điềm đạm, luôn từ
chối không dự tuyển đi làm quan, ở nhà dạy học, học trò đến mấy nghìn
người, nhiều người thành đạt người ta đều tôn là bậc mô phạm.

Năm thứ 13 (1860), quan trấn thủ tiến cử về học hạnh, có chỉ bổ đi huấn
đạo Nam Xang rồi thì mất. Con là: Quý Quýnh, đỗ tú tài; Quý Vỹ đỗ cử
nhân.

Nguyễn Đạo

ự là Suất Tính, người Lễ Dương, Quảng Nam. Lúc nhỏ mồ côi chăm học,
đầu niên hiệu Minh Mạng (1820) 2 lần đỗ tường sinh. Năm 40 tuổi, hạch
theo lệ, được bổ giáo chức, vì có mẹ già xin từ chối ở nhà phụng dưỡng. Ở
nhà, lấy việc cày ruộng, đọc sách làm nghề nghiệp, lấy hiếu, hữu, lễ,
nhượng dạy con em, người làng đều cảm hóa theo. Tính chất phác ngay
thẳng, đối với mọi người ít khi uốn mình chiều ý, nhưng mau chân cứu cấp
khi hoạn nạn, vui lòng giúp đỡ khi túng thiếu. Hồi đầu niên hiệu Tự Đức
(1848), mùa màng luôn bị thất bát, Đạo quyên chẩn không ngại tốn, làng
Đạo ở và những thôn xã lân cận nhờ được qua sống rất nhiều. Đạo lại

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.