này đáng buồn, Hủ cười trả lời rằng: " … không gặp gốc to, bướu nặng, sao
rõ được đồ dùng sắc".
(87) Dương Hỗ tự là Thúc Tử làm quan đời Tấn, đóng trấn ở Tương Dương
đối cõi với tướng địch quốc là Lục Kháng nhà Ngô, thường chỉ thắt dây
lưng lỏng mặc áo cừ nhẹ mà chăm điều đức, được người nước Ngô kính
phục yêu mến, lúc chết còn nhớ tiếc.
(88) Chưa hiểu Quốc Vũ Tử là ai và bài "Cao cừu như nhu" thế nào. Thơ
Cao Cửu trong kinh Thi không nói gì về Quốc Vũ Tử.
(89) Quách Tế Hầu tức là Quách Cấp đời Đông Hán, khi đến làm quan mục
ở Tính châu lần thứ hai, dân mộ đức khi trước tranh nhau ra đón. Mỗi khi
đi hành hạt đến Mỹ Tắc ở Tây Hà lại có mấy trăm em nhỏ cưỡi ngựa tre
đón ở dọc đường (đón chứ không phải đưa).
(89) Chỗ này chữ Hán là "cấp tảo kỳ lai quê" (được kịp trở về sớm) không
hiểu ý nói thế nào. Trong điển Quách Cấp không có nói gì đến việc trở về
(xem chữ "trúc mã" ở Từ Hải).
(91) Chữ Hán là hùng phiên, một nơi phiên trấn trọng yếu
(92) Chữ Hán là tân đồ: cuộc toan tính mới.
(93) Chữ Hán là Nhạc thủy. Luận Ngữ cố câu "Trí giả nhạc thủy" (người
khôn thời yêu cảnh nước). Chữ nước dịch trên là nước non, không phải
nước nhà.
(94) Chữ nhân đây là nhân huệ.
(95) Bá đây là chỉ về nghiệp bá của Quản Trọng đời Xuân Thu.
(96) Giả Nghị làm quan đời Hán Văn đế, chết sớm khi mới 33 tuổi.