cần Thành Thái kịp thời có mặt, đại sự tất thành!”.
Mông Điềm không tiện tiếp tục phản đối, đành cung kính báo cáo: “Bệ
hạ, thần đã chuẩn bị xong mọi thứ, binh sĩ nghỉ ngơi đầy đủ, chiến mã đều
được ăn no, chỉ đợi bệ hạ ra lệnh xuất kích”.
Trương Cường cười ha hả, phấn khích nói: “Vậy thì chúng ta lập tức
xuất phát, sáng mai trẫm sẽ cho khanh thấy thần binh từ trên trời giáng
xuống”.
Mông Điềm bán tín bán nghi, theo lẽ thường muốn tập kích quân địch
phải lựa chọn tấn công vào ban đêm mới đúng, được màn đêm hỗ trợ mới
phát huy sức mạnh tối đa sát thương quân địch được chứ. Nhưng bây giờ
Trương Cường lại làm ngược binh pháp, tập kích quân Sở vào lúc trời sáng,
làm vậy không những Mông Điềm không hiểu, các tướng lĩnh bên dưới
cũng nhốn nháo bàn tán, nhưng có Mông Điềm đứng ra trấn an nên toàn
quân đều yên tâm phần nào.
Vào lúc canh 5, Trương Cường cùng Mông Điềm dẫn theo mười vạn
quân Tần bí mật đến được khu rừng cách Kinh Nguyên hai mươi dặm, dựa
vào ánh trăng có thể nhìn thấy ngọn cờ lớn phất phơ trong doanh trại quân
Sở từ xa xa.
Hàn Hoán theo hầu sát bên Trương Cường, nhẹ chân bước tới khoác lên
giúp hắn chiếc áo choàng lông cáo, khúm núm nói: “Bệ hạ, gió đêm lạnh
lẽo, cẩn thận long thể”.
Trương Cường hành quân suốt một đếm, đang mệt lả người, quay đầu
nhìn lại thấy Hàn Hoán cũng mệt mỏi như mình, liền cảm động cất tiếng:
“Vất vả cho ngươi rồi, hãy lui xuống nghỉ ngơi đi!”.
Lúc này, mười vạn quân Tần tranh thủ thời gian nghỉ ngơi hồi sức, số
quân nhân chính quy này hiểu rất rõ thể lực đóng vai trò quan trọng như thế
nào khi giao chiến nên không cần Mông Điềm ra lệnh đã tự động nghỉ ngơi
hồi phục thể lực, chuẩn bị dồn toàn lực cho trận chiến sinh tử sắp tới.
Trương Cường uống vội một bát canh nóng, tia sáng đầu tiên ló dạng
nơi chân trời, một cơn gió thoảng qua, màn sương mỏng trên những tán lá
liền ngưng tụ lại rơi xuống.