Mùa thu, tháng 8, người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố
Linh, Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phụ.
Mùa đông, tháng 10, mở hội La Hán ở Long Trì, đại xá thiên hạ, tha tội lưu,
tội đồ và một nửa tiền thuế cho thiên hạ. Trước đây, vua sai thợ tạc hơn
nghìn pho tượng Phật, vẽ hơn nghìn bức tranh Phật, làm bảo phướn hơn
[29b] một vạn lá. Đến đây xong việc, làm lễ khánh thành.
Tân Tỵ, [Càn Phu Hữu Đạo] năm thứ 3 [1041] , (Tống Khánh Lịch năm thứ
1). Mùa xuân, tháng 2, có chim sẻ trắng đậu ở cấm đình.
Mùa hạ, tháng 5, đặt phẩm cấp các cung nữ, hoàng hậu và phi tần 13 người,
ngự nữ 18 người, nhạc kỹ hơn 100 người.
Tháng 6, Điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc và Phùng Luật mưu làm phản.
Xuống chiếu bắt Lộc, Luật và bè đảng giao cho quan trị tội. Khai Hoàng
Vương xét xử, bọn Lộc, Luật đều phải giết.
Mùa thu, tháng 9, vua ngự đến Kha Lai để bắt voi, lại ngự đến Kha Lãm,
rồi về Kinh sư.
Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến núi Tiên Du xem làm viện Từ Thị Thiên
Phúc. Khi về, xuống chiếu phát 7.560 cân đồng trong kho để đúc tượng
Phật Di Lặc và hai vị Bồ tát Hải Thanh và Công Đức cùng chuông để ở
viện ấy.
Tháng 11, xuống chiếu cho Uy Minh hầu Nhật Quang
462
làm tri châu Nghệ
An.
[30a] Năm ấy, Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa
463
lại
về chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng
đi đánh, bắt sống được Trí Cao đem về Kinh sư. Vua thương tình vì cha là
Tồn Phúc và anh là Trí Thông đều đã bị giết nên tha tội, cho giữ châu
Quảng Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà
và châu Tư Lang
464
nữa.
Nhâm Ngọ, [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 4 [1042] , (Từ tháng 10 về sau là
niên hiệu Minh Đạo năm thứ 1; Tống Khánh Lịch năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng 3 vua ngự ra cửa biển Kha Lãm
465
cày ruộng tịch điền rồi về Kinh
sư.