Kỷ Dậu
517
, [Thiên Huống Bảo Tượng] năm thứ 2 [1069], (Từ tháng 7 về
sau là niên hiệu Thần Vũ năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa xuân,
tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ
518
và dân chúng 5 vạn người. trận này vua đánh chiêm thành mãi không được,
đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng
dân [5a] cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân
gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế,
ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa,
thắng được.
Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Mùa thu, tháng 7, vua từ Chiêm thành về
đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1. Chế Củ
xin dâng ba châu Địa Lý
519
, Ma Linh
520
, Bố Chính
521
để chuộc tội. Vua
bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước (Địa Lý nay là tỉnh Quảng nam)
522
.
Mùa đông, tháng 10, ngày Đinh Sửu, có đám mây sắc đỏ sát mặt trời.
Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070], (Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa
xuân, làm điện Tử Thần.
Mùa hạ, tháng 4 đại hạn, phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho
dân nghèo.
Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ
phối
523
, vẽ tượng Thất thập nhị hiền
524
, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử
đến học ở đây.
[5b] Tân Hợi , [Thần Vũ] năm thứ 3 [1071], (Tống Hy Ninh, năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng giêng, vua viết bia chữ "Phật" dài 1 trượng 6 thước đặt ở
chùa Tiên Du
525
. Từ mùa xuân đến mùa hạ không mưa.
Chiêm Thành sang cống.
Định tiền chuộc tội theo thứ bậc khác nhau.
Mùa đông, tháng 12, vua không khỏe. Xuống chiếu cho Hữu ty ai vào lầm
hành lang tả hữu quan chức đô
526
thì đánh 80 trượng.
Nhâm Tý, [Thần Vũ] năm thứ 4 [1072], (Từ tháng giêng về sau là Nhân
Tông, Thái Ninh năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng
giêng, ngày Canh Dần, vua băng ở điện Hội Tiên. [Bầy tôi] dâng hiệu là