Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ
Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xót thương vì hình ngục, nhân từ với nhân dân, là
việc đầu tiên của vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có
kẻ vô tội mà chết vì đói rét, [6a] cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống,
lo quan lại giữ việc hình ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo mà nhận tiền đút lót,
cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì
xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người
nghèo, trước sau một lòng, đều là thành thực. Huống chi lại tôn sùng đạo
học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam bình
Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Tuy có
việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có người bảo là vua
nhân nhu có thừa mà cương đoán không đủ, ngu ý chưa cho là phải.
Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên hiệu là Thái Ninh
năm thứ 1. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là _ Lan nguyên phi làm
Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu [6b] họ Dương làm
Hoàng thái hậu, buông rem cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành
giúp đỡ công việc.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật.
Vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu. Tha các tù ở phủ Đô hộ.
NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Húy Càn Đức, con trưởng của Thánh Tông, mẹ đẻ là thái hậu Linh Nhân,
sinh vua ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ, Long Chương Thiên Tự thứ 1
[1066], ngày hôm sau lập hoàng thái tử. Thánh Tông băng, vua lên ngôi
hoàng đế, ở ngôi 56 năm [1072 - 1127], thọ 63 tuổi [1066 - 1127], băng ở
điện Vĩnh Quang. Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ,
trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông
âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi
của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó là điều lụy cho
đức tốt.
Qúy Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ