sống chết, như lẽ tất nhiên có ngày thì có đêm. Lời di chiếu nói rất thấu lẽ,
đủ biết cái ý "không gõ chậu hát ca, đến lúc tuổi già than tiếc"
592
. Dạy
người như thế thật sâu xa vậy, tuy nhiên, ở Nhân Tông thì đó là lời nói sáng
đạo, mà ở Thần Tông thì lại là việc làm thất hiếu. Văn Hưu bàn thế là phải.
THẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ
Húy Dương Hoán, cháu gọi Thánh Tông bằng ông, cháu gọi Nhân Tông
bằng bác, con của Sùng Hiền hầu, do phu nhân họ Đỗ sinh ra. Khi mới lên
2 tuổi, được nuôi trong cung, lập làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng, bèn
lên ngôi báu. Ở ngôi 11 năm [1128 - 1138], thọ 23 tuổi [1116 - 1138] băng
ở điện Vĩnh Quang. Vua khi mới lên ngôi hãy còn trẻ dại, đến khi lớn lên,
tư chất thông minh, độ lượng nên việc sửa sang chính sự, dùng người hiền
tài, thủy chung đều chính, nhiệm nặt khúc nôi, không gì sai lệch. Tuy thân
mang ác tật nhưng rồi chữa lành, cũng là nhờ có ý trời cả. Song quá thích
điềm lành, tôn sùng đạo Phật, chẳng đáng [28b] quý gì.
Mậu thân, Thiên Thuận
593
năm thứ 1 [1128], (Tống Kiến Viêm năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Bính Tuất, đổi niên hiệu, đại xá. Tôn
mẹ nuôi là Trần Anh phu nhân làm Hoàng Thái hậu.
Xuống chiếu rằng: Phàm dân có ruộng đất bị sung công cùng là bị tội phải
làm điền nhi thì đều được tha cả. Các tăng đạo và dân phải làm lộ ông
594
cũng được miễn.
Cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng, theo chế độ xưa.
Ngày Mậu Tý, tôn thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng Đế là Hiếu Từ Thánh
Thần Văn vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Nhân Tông.
Ngày Kỷ Sửu, biếm Đại liêu ban Lý sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây
Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời.
Ngày Tân Mão, xuống chiếu rằng nước đang có tang, dân chúng không
được cưỡi ngựa và đi võng màu lam, xe che màn.
Ngày Canh Tý, vua bắt đầu ngự kinh diên [nghe giảng học].
Ngày Tân Sửu, lấy Nội [29a] vũ vệ Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tước
hầu; Nội nhân hỏa đầu Lưu Ba, Dương Anh Nhĩ làm Thái Phó, tước Đại
liêu ban; Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị đại phu, thăng trật chư vệ;