Tương công bị giết. Lỗ Trang công cho quân đưa công tử Củ về lập làm
vua, nhưng bấy giờ Tiêu Bạch (là anh của củ) đã lên ngôi (tức Tề Hoàn
Công), nước Lỗ phải rút quân về.
662 Tiệp Tri: con Văn công nước Trâu (mẹ là con vua nước Tấn), sau khi
Văn công chết, Tấn cho quân đem Tiệp Tri về nước, nhưng con trưởng của
Văn công là Quắc Thư đã nối ngôi, người nước Tấn biết là trái đạo, phải rút
về.
663 Chỉ quan lại.
664 Ngự Thiên: nay là một phần đất huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vùng
huyện Hưng Nhân cũ).
665 Ngự trù: bếp của nhà vua.
666 Về việc này, Toàn thư và Cương mục đều chép người đi sứ về là
Nguyễn Quốc, nhưng Đại Việt sử lược chép là Nguyễn Quốc Dĩ, giữ chức
Tả ty và kể sự việc kỷ hơn: Người giữ việc đọc thư nói lại với Đỗ Anh Vũ
về bức thư nặc danh, Anh Vũ nói: "Ông vì ta tâu vua xin xét việc đó". Tìm
không ra người viết thư, Anh Vũ tâu rằng: "Thư ấy tất do người xướng xuất
ra việc làm hòm viết ". Vua lấy làm phải, sai bắt Quốc Dĩ và em là Nghi
Giao cho quan xét xử, sau đó, đày Quốc Dĩ lên trại Quy Hóa (Toàn thư, ghi
là Thanh Hóa?). Khi biết vua có ý định cho gọi Quốc Dĩ về, Anh Vũ sai
người đem thuốc độc cho Quốc Dĩ (ĐVSL3,6b).
667 Xuy Vưu: theo truyền thuyết Trung Quốc, là hậu duệ của Viêm Đế,
làm vua nước Cửu Lê thời thượng cổ, thua trận ở Trác Lộc, bị Hoàng Đế
bắt giết.
668 Chùa Pháp Vân: tức là chùa Dâu ở xã Thanh Khương,Hà Bắc.
669 Có nhầm lẫn ở điều ghi này của Toàn thư. Phải đến năm 1206 quốc gia
Mông Cổ mới thành lập. Sứ đến nước ta bấy giờ có lẽ là sứ nước Kim.
Cương mục cũng chữa là sứ thần nước Kim. (CMCB5, 14a).
670 Văn Tuyên Vương: tức Khổng Tử.
671 Đại Việt sử lược chép đổi niên hiệu vào tháng giêng (ĐVSL3,8a).
672 Nguyên bản khắc nhầm chữ đạo lý với chử lý (lẽ) đúng ra là chữ lý
(dặm đường).
673 Đại Việt sử lược chép là Đỗ An Thuận (ĐVSL3, 9b).!Chữ Di và chữ