Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa
(người bấy giờ gọi là "cửa khoét"), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để
thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông.
Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần
Thủ Độ, cho châu lạng làm ấp thang mộc.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam Đại xưa lấy được thiên hạ là vì lòng nhân.
Cho nên [3a] những vua có đức lớn mà không làm nhiễu việc ác quá lắm
thì trời chưa bao giờ vội dứt bỏ họ. Nhà Hạ nếu không có Kiệt, nhà Thương
có Trụ, thì việc truyền ngôi hẵn cũng chưa hết. Xem như cuối đời nhà Chu,
các nước chư hẫu cưỡng bức, tiếm lấn mà ngôi chính thống vẫn truyền nối
mãi mãi không dứt. Đó là do nhân sâu ơn dày của tổ tông để lại mãi đến đời
sau vậy.
Họ Lý được nước không kém gì Tam Đại, truyền nối nhiều đời, đến Huệ
Tông không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương
đến đây là hết rồi, cho nên họ Trẫn mới có thể lấy được nước. Đã lấy nước
của người ta, lại giết vua của người ta thì thực bất nhân quá lắm.
Sau này, Phế Đế phải thắt cổ chết, Nguyên Quân bị giết
724
, mình làm thế
nào thì phải chịu thế ấy, đạo trời là như vậy đó. Dù không có lời nguyền
của Huệ Tông, cũng tin là phải thế. Thủ Độ coi việc đó là hết lòng trung, lo
việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau chỉ mặt [3b] gọi là giặc giết
vua, huống chi lại còn làm thói cho lợn
725
.
Đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù
trưởng người Man.
Mùa đông, tháng 10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ
Thiên, phường Hạc Kiều phía bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong
đó xem xét, quyết định. Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu (
có sách chép là Bảo Thánh Quốc mẫu).
Xuống chiếu cho dân gian dùng tiễn "tỉnh bách"
726
mỗi tiễn là 69 đỗng.
Tiền nộp cho nhà nước ( tiễn " thượng cung") thì mỗi tiễn là 70 đồng.
Tuyển thục nữ trong nước sung làm cung nhân.
Sai Phụ quốc thái phó Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép