dịch cũ q.II, 1971, tr.42 và tr.290). Nhưng An Nam chí lược q.14, chép rõ:
"Sai đại phu Đồng Tử Dã, Đỗ Mộc Cống".
798 Lời chú Bản dịch cũ (q.II, 1971, tr.209) ngờ rằng tên Hồi Kê ? là Hồi
Cốt ?). Hồi Cốt hay Hồi Hột, Hồi Hoạn là dân tộc Uigur ở Tân Cương.
Chắn người Tống nhận mình là người Hồi Hột để tránh quân Nguyên.
799 Tức thái tử.
800 Trừ cung: cũng là thái tử. Trừ cung giáo thụ là chức thày học của thái
tử.
801 Tức nhật thực toàn phần.
802 An Nam chí lược chép: "...sai đại phu Lê Khắc Phục, Lê Văn Túy đi
cống". Nguyên sử chép: "...sai Lê Khắc Phục, Văn Túy vào cống". Lê Túy
Kim chắc là Lê Văn Túy.
803 Tức Kha-xa Kha-y-a (Qasar Qaya), tên này được Hốt Tất Liệt cử làm
Đạt lỗ hoa xích ở Đại Việt từ tháng 3 năm 1275. Toàn thư chép lầm 1
năm.Yêu sách 6 điểm của Hốt Tất Liệt là: quân trưởng phải vào chầu, con
em phải làm con tin, kê sổ hộ khẩu, thu nộp thuế má, điều động quân giúp
việc binh, đặt chức Đạt lỗ hoa xích để thống trị (Theo an Nam chí lược q.2,
Đại Nguyên chiếu chế).
804 CMCB7 chú là động Man ở phủ lộ Bố Chính, tức vùng Quảng Bình
ngày nay.
805 Thái Tông nhà Đường tên là Lý Thế Dân, sau khi cha là Lý Cao Tổ
chết, Thế Dân đem quân phục ở cửa Huyền Vũ, giết hai người anh là Kiến
Thành và Nguyên Cát để đoạt ngôi vua.
806 Yên Sinh: là thực thấp của Trần Liễu, sau khi Liễu nổi loạn chống lại
Trần Thái Tông. Khi Trần Liễu chết, được truy phong tước vương, nhân đất
phong mà gọi là Yên Sinh Vương.
807 Chỉ Khổng giáo hay Nho giáo.
808 Nguyên sử chép là Sài Thung, hai chữ Thung và Xuân gần giống như
nhau nên dễ lẫn. Trước đây, các sứ bộ của Đại Việt và Mông Cổ đều đi qua
đường Côn Minh (Vân Nam). Lần này, bọn Sài Thung đi thằng từ Giang
Lăng (Hồ Bắc), qua Ung Châu (Quảng Tây) để vào nước ta, nên Toàn thư
mới nói là đi theo đường Hồ Quảng về nước.