Khi quân Minh mới vào [51b] cõi, ra lệnh cho nhân dân đều phá bỏ hết lúa
má; các xứ Lạng Châu, Vũ Ninh, Bắc Giang, Gia Lâm, Tam Đái, đều
nghiêm chỉnh làm vườn không nhà trống. Quân Minh rút đi, nhân dân lại
phục nghiệp như cũ.
Hán Thương sai An phủ sứ Tam Giang là Trần Cung Túc sang nhà Minh
cầu hòa và giải thích sự việc Thiêm Bình, Thông phán Ái Châu là Mai Tú
Phu làm phó sứ, Thiêm phán Tưởng Tư làm tòng sự. Nhà Minh giữ họ lại,
sau bắt được hai [cha con] họ Hồ mới thả về.
Hán Thương gọi Tuyên phủ sứ Thăng Hoa Nguyễn Ngạn Quang về làm
Đại lý chính; lấy Trấn phủ sứ Nghĩa Châu là Lê Quang Tổ làm Tuyên phủ
sứ Thăng Hoa. Hối Khanh giữ chức Hành khiển tả ty thị lang kiêm lĩnh thái
thú Thăng Hoa, tiết chế Tân Ninh, chuyên quyền cai trị một phương. Đỗ
Mãn thôi chức Thượng thư lệnh hữu tham tri chính sự, lấy Hành khiển
Binh bộ thượng thư kiêm Thiên Ngưu vệ đại tướng quân Đỗ Nhân Giám
thay. [52a] Nội nhân coi quân Thiên Chương là Ngô Miễn làm Hành khiển
thượng thư lệnh hữu tham tri chính sự kiêm coi các lăng phủ Thiên Xương.
Tháng 6, đỉnh tháp Báo Thiên đổ, An phủ sứ Đông Đô Lê Khải không báo
tin, bị biếm 1 tư.
Hành khiển môn hạ hữu ty lang trung Trần Ngạn Chiêu bị bãi làm Hộ bộ
thượng thư, lấy Thiêm tri nội mật kiêm tri Thẩm hình viện sự Nguyễn Cẩn
làm Hành khiển môn hạ hữu ty lang trung.
Hán Thương bổ thêm hương quân, lấy người có phẩm tước tạm trông coi.
Chiêu mộ những người vong mệnh làm quân dũng hãn, đặt các chức thiên
hộ, bách hộ để cai quản.
Quý Ly chiêm bao thấy thần nhân ngâm bài thơ rằng:
Nhị nguyệt tại gia, Tứ nguyện loạn hoa, Ngũ nguyệt phong ba, Bát nguyệt
sơn hà, Thập nguyệt long xa. (Tháng hai ở nhà, Tháng tư loạn hoa, Tháng
năm sóng gió, Tháng tám núi sông, Tháng mười xe rồng). Mùa thu, tháng
7, Hán Thương ra lệnh cho các lộ đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Cái, từ
thành Đa Bang đến Lỗ [52b] Giang và từ Lạng Châu đến Trú Giang
Giang
1331
để làm kế phòng thủ.