Hán Thương hạ lệnh cho dân Tam Đái và Bắc Giang tích trữ lương thực,
vượt sông sang làm nhà cửa ở chỗ đất hoang, chuẩn bị di cư đến đó.
Hán Thương gọi các quan cũ chờ lệnh bổ dụng.
Tháng 9, nhà Minh sai ChinhDi hữu phó tướng quân đeo ấn Chinh di phó
tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, Tham tướng Huỳnh Dương Bá
1332
Trần Húc, đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy
1333
cứ một toán mai
phục, một toán hành quân, thay nhau phiên nhau cứu ứng lẫn nhau.
Chinh Di tả phó tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Tham tướng hữu
quân đô đốc đồng tri Phong Thành hầu Lý Bân cũng đem 40 vạn quân đánh
vào cửa ải Phú Lệnh
1334
, xẻ núi, chặt cây, mở đường tiến quân. Hai đạo
quân tổng cộng là 80 vạn.
Tháng 11 [quân Minh] hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông
Cái, đến tận Trú Giang.
Hán [53a] Thương hạ lệnh cho quân ở sông Cái theo sự tiết chế của Tả
tướng quốc Trừng, quân ở Trú Giang theo sự tiết chế của Thiêm văn triều
chính Hồ Đỗ. Phía ngoài liên kết chiến hạm của thủy quân, trên bờ thì binh
tướng của ta đóng đối diện với doanh trại giặc, nhưng chưa từng giao chiến
trận nào.
Trước đó, nhà Minh sai Thái tử thái phó Thành quốc công Chu Năng làm
tổng binh đeo ấn Chinh Di tướng quân đem quân xâm lược phương Nam.
Năng đến phủ Thái Bình ở Quảng Tây thì chết. Trước đó Năng đã làm bảng
văn kể tội họ Hồ, rêu rao là tìm người họ Trần cho khôi phục lại vương
tước. Đến đây, bọn Phụ, Thạnh viết lời bảng văn ấy vào nhiều mảnh gỗ thả
theo dòng. Các quân người nào trông thấy thì cho là đúng như lời trong
bảng, hơn nữa lại chán ghét chính sự hà khắc của họ Hồ, không còn bụng
dạ chiến đấu nữa.
Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc
đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho
quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy [53b] sứ;
Viễn làm đến diêm vận sứ; Huân làm đến bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là
cháu Mạc Đĩnh Chi).