BK 12, 59a và 96b đều chép là Mục Lăng.
1756 Nguyên văn là Dương Lăng, sửa là Mục Lăng. Toàn thư BK12, 98b
cũng chép là Nguyễn Bá Kỳ soạn bài văn bia ở Mục Lăng.
1757 Tức họ Lư Cầm, tù trưởng Bồn Man.
1758 Phong hiến: là chức ngự sử giữ việc đàn hặc.
1759 Lễ bái bài: tức là lễ bái vọng vào các dịp sinh nhật vua hoặc ngày
chính đán.
1760 Viện nhi: người hầu hạ và sai phái trong các viện.
1761 Đại bô: tiệc cho thần dân vào các dịp lễ lớn
1762 Ngô: danh từ để chỉ người Trung Quốc hồi ấy.
1763 Chỉ cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi lập ra nhà Lê.
1764 Vi phi: làmnhững điều phi pháp.
1765 Nguyên văn là "bảo kết:", nghĩa là bảo đảm, cam kết.
1766 Khổng Tử nói: "Tăng Văn Trọng chẳng phải là kẻ trộm cướp ngôi vị
đó ư? Biết Liễu Hạ Huệ là người hiền mà không cho cùng làm quan với
mình" (Xem Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công).
1767 Nên sửa lại là tháng 11 như bản dịch cũ có lẽ đúng hơn.
1768 Lê Niệm là con Lê Lâm, cháu Lê Lai, Lê Lâm đi đánh Ai Lao, bị
chông sắt mà chết.
1769 Tức là vào hàng tế thần tham dự triều chính.
1770 Như Hối: tức Đỗ Như Hối, Huyền Linh: là Phòng Huyền Linh, đều là
bề tôi giỏi của Đường Thái Tông.
1771 Đái Trụ: là người minh mẫn, cư8ng trực, rất giỏi xử việc rối rắm phức
tạp làm đến Kiểm hiệu Lại bộ thượng thư cho Đường Thai Tông.
1772 Ngạn Bắc: tức là Ôn Ngạn Bác,giỏi việc tâu bày, làm Thượng thư hữu
bộ xạ đời Đường Thái Tông.
1773 Đổng Tuyên: là quan lệnh ở Lạc Dương, tính cứng cỏi, thẳng thắn,
khi xử vụ án giết người đầu bếp của Hồ Dương công chúa,Hán Vũ Đế bắt
tuyên phải lạy tạ công chúa, tuyên chống hai tay xuống đất, nhất định
kh6ng chịu lạy.
1774 Tô Uy: là trọng thần của nhà Tùy mất, Uy sống tùy thời, triều này lên
cũng xin thờ phụng và đều được trọng dụng. Đến khi Đường Thái Tông