hỏi Thái Tông muốn lập ai. Thái Tông nói: Muốn lập Tần Vương. Bọn Vô
Kỵ nói: "Chúng tôi xin vâng mệnh, ai bàn cách khác thì chém. Thái Tông
quay sang bảo Tần Vương: "Cậu đã bằng lòng lập con rồi đấy, phải tạ cậu
đi".
1785 Vệ Quán: là bề tôi của Tần Vũ Đế, biết Huệ Đế tư chất kém không
làm vua được, nhưng chưa dám nói với Vũ Đế. Sau nhân khi dự yến, giả
say, vỗ vào sập của Vũ Đế ngồi mà nói: "Chổ ngồi này thực đáng tiếc".
1786 Tiết Cư Châu: là thiện sĩ người nước Tống thời Chiến Quốc.
1787 Thơ dịch của bản cũ, có sửa một đôi chữ.
1788 "Trung hư": có nghĩa là trống giữa.
1789 Thường sơn xà: rắn Thường sơn.
1790 Mãn thiên tinh: sao đầy trời.
1791 Nhạn hàng: chim nhạn bay sóng hàng.
1792 Liên châu: chuỗi hạt châu.
1793 Ngư đội: đàn cá.
1794 Tam tài hành: trời, đất, người là tam tài.
1795 Thất môn: bảy cửa.
1796 Yển nguyệt: trăng khuyết.
1797 Trước đã ân xá các thuế đinh, điền. Nay cần chi tiêu lại bắt dân phải
nộp trả lại.
1798 Chỉ thời kỳ thuộc Minh.
1799 Tường tự: đều là nhà hương học đời xưa của Trung Quốc. Nhà
Thương gọi là tự, nhà Chu gọi là tường.
1800 Đăng khoa lục: sách ghi chép tên những người thi đỗ, cùng quê quán
và thứ bậc của họ.
1801 Đề danh bị: bia đá khắc tên tuỗi, quê quán các vị tiến sĩ.
1802 Năm phủ (Ngũ phủ): gồm Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân
phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ.
1803 Sáu bộ (Lục bộ): gồm Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Hình bộ, Binh bộ, Công
bộ.
1804 Sáu tự (Lục tự): gồm Đại Lý, Thái thường, Quang Lộc, Thái bộc,
Hồng lô, Thượng bảo.