ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ - Trang 936

1967 Tử Dương: tức Công Tôn Thuật, chiếm cứ đất Thục, xưng đế, chống
lại nhà Hán. Mã Viện từng nói với Ngỗi Ngao: "Tử Dương như con ếch
ngồi dưới đáy giếng". Ý nói kiến thức nông cạn.
1968 Ngô Nguyên Tế phản nhà Đường, Lý Tổ lợi dụng đêm có tuyết,
ngỗng vịt ầm ĩ, đem quân đánh, bắt được Nguyên Tế.
1969 Hiên Hoàng: tức Hoàng đế, tên một ông vua trong truyền thuyết
Trung Quốc.
1970 Chu Tuyên: tức là Chu Tuyên Vương, Hoài Di: là Rợ Di ở miền sông
Hoài thời đó.
1971 Xem BK 10 việc năm Tân Sửu (1421) và BK 11 việc năm Đại Bảo
thứ 2 (1441) và Đại Bảo thứ 3 (1442).
1972 Chỉ Lê Lợi.
1973 Từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông, không có vị vua nào miếu hiệu là
Dụ Tông. Có lẽ chữ Dụ do chữ Hựu chép lầm. Thái Tông chôn ở Hựu
Lăng, nên Hựu miếu dùng để chỉ Thái Tông.
1974 Nhà Tống đến thời Cao Tông phải xưng thần, nộp cống cho nước
Kim. Các vua Tống họ Triệu nên gọi là Triệu Tống.
1975 Chỉ việc Tề Tượng công diệt nước Kỳ để báo mối thù của tổ 9 đời Tề
Ai công được sách Xuân Thu khen.
1976 Nguyên văn là " Chinh at6y tướng sĩ, chữ " sĩ " in lầm, các bản in sau
chữa là quân"
1977 Tức là thành Luông Pha Bang, tục gọi là Mường Luông.
1978 CMCB23 chép là sông Kim Sa, sông Kim Sa tức là sông Irauadi ở
Miến Điện.
1979 Nguyên văn là "Tả hữu tuần tiễu phó tướng quân... "Sửa theo tờ 24b:
"Hữu tuần tiễu phó tướng quân Nguyễn Cảnh Thanh...".
1980 Ngày mồng 8, xa giá tới Châu Bồ, đóng doanh 4 ngày, thì ngày trở về
phải là ngày 12 chứ không phải là ngày 22.
1981 Cửa ải Thông Quan ở xã Quang Lang, châu Ôn, sau đổi là đồn Quang
Lang (CMCB 13).
1982 La Truyền là một viên thổ tù tỉnh Quảng Tây, Nguyên vănlà "hóa
ngoại đầu mục ", nghĩa là viên đầu mục ở ngoài vòng giáo hóa của triều

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.