Cho nên, niềm kiêu hãnh của người Hán vô cùng lớn, chỉ có việc tự
xưng bản thân mình là Thiên Triều Thượng Quốc thì mới có thể đáp ứng
một phần niềm kiêu hãnh đó, đương nhiên, bản thân văn hóa không được
xem là vũ lực hay là sức chiến đấu, giống như là vũ khí bị phê bình không
thể nào thắng được sự phê bình vũ khí vậy, văn hóa người Hán vẫn tiếp tục
tự trói buộc bản thân. Bởi vì không hề có sự cạnh tranh phấn đấu với các
nền văn hóa văn minh khác cho nên vẫn đứng yên tại chỗ, và Nho gia vốn
dĩ từ chỗ thúc đẩy xã hội tiến bộ, không ngừng thay đổi bản thân, cũng chỉ
đành đứng yên như vậy, không thể nào hoàn thiện bản thân thông qua việc
giao lưu học hỏi với các nền văn hóa khác.
Nhưng châu Âu thì khác, bởi vì văn minh của họ không phải là vương
triều thống nhất, sự giao lưu nội bộ của họ, giao lưu với văn hóa Ả rập, đây
là một nền văn hóa không bao giờ ngừng phát triển...
Sự bế quan phong tỏa như vậy, kết quả chỉ có một đó chính là tổn thất
nội bộ, trong bối cảnh Nho gia không thể nào phát triển theo chiều dọc thì
chỉ có thể phát triển mở rộng nội dung của nó theo chiều ngang, giống như
là Lý học đời Tống, Tâm học đời Minh, thực tế không có nhiều ý nghĩa với
bản thân Nho gia, nhưng mà bởi vì không thể mở rộng theo chiều dọc, nên
chỉ có thể mở rộng theo chiều ngang để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tất cả những điều này bắt đầu có sự thay đổi từ cuối đời Minh.
Theo sự bắt đầu của thời kỳ phục hưng nghệ thuật Âu Mỹ, nền văn
hóa của họ đã phát triển vượt bậc theo kịp nền văn minh người Hán, cùng
với sự bắt đầu của những chuyến vượt biển, họ đã bắt đầu giao lưu với nền
văn minh người Hán. Vào cuối đời Minh, sự giao lưu này đã phát triển đến
đỉnh cao, và vào lúc này, nhiều chí sĩ cuối đời Minh cũng đã cảm nhận
được sự cần thiết của việc thay đổi và tiến bộ, cho dù là sự manh nha của
chủ nghĩa tư bản hay là một số nhân vật đại diện cho Nho gia bắt đầu ý
thức được sự thay đổi theo hướng tiến bộ hơn của Nho gia, tất cả dấu hiệu