Những năm đại học
Jung nhập học Đại học Basel năm 1895. Điểm đặc biệt ở ông là quyết
định nghiên cứu khoa học tự nhiên và y học được đưa ra không hẳn bởi tìm
hiểu sách vở mà bởi những giấc mơ. Đời sống sinh viên có vẻ đã có tác
động giải thoát đối với ông, cũng như sự mất sớm của cha ông ở tuổi 54 khi
ông mới 21 tuổi. (“Ông ấy mất đúng lúc đối với con”, mẹ ông nhận xét một
cách u ám). “Giờ đây, tôi bắt đầu biểu lộ sự say mê ở mọi phương diện. Tôi
biết mình muốn gì và theo đuổi nó. Tôi cũng trở nên dễ gần và cởi mở hơn
nhiều” (Tự truyện, trang 93).
Một ý tưởng vay mượn từ Heraclitus đã có tầm quan trọng sống còn đối
với Jung: mọi thực thể sở hữu một khuynh hướng nội tại là hướng về cái đối
lập với chúng. Khuynh hướng này được Heraclitus gọi là enantiodromia
(nghĩa đen là “đi ngược với”). Jung tin đây là đặc trưng của mọi hệ thống
năng động, và ông thấy loài người là ví dụ hoàn hảo nhất. Khi trẻ con lớn
lên, cuộc đời chúng biểu lộ thiên hướng bù đắp cho những thất bại của cha
mẹ. Thiên hướng này đặc biệt lộ rõ ở Jung, và cuộc đời ông ở nhiều khía
cạnh có thể được hiểu như một nỗ lực khắc phục những khiếm khuyết của
cha ông.
Paul Jung là người rụt rè về tâm linh, thờ ơ về lý trí, có khuynh hướng
chấp nhận giáo điều, có những dấu hiệu chưa chín chắn về cảm xúc và tránh
né những vấn đề lớn của đời mình. Ngược lại, Carl biểu lộ sự dũng cảm về
tâm linh và khắt khe về lý trí, cưỡng lại giáo điều ở bất cứ nơi nào ông bắt
gặp, dành cả đời tinh chỉnh những kỹ thuật phát triển nhân cách, và sẵn sàng
đương đầu trực tiếp những vấn đề quan trọng kể cả nếu điều này khiến ông
không được quần chúng ưa chuộng hoặc tán thành.
Cũng chính thiên hướng bù đắp ấy biến ông thành người cả đời theo
thuyết ngộ đạo, một gnostikos (tiếng Hy Lạp nghĩa là “người biết”) - một
người toàn tâm hướng tới cái biết bản chất của tinh thần thông qua trải
nghiệm trực tiếp và tự mình khám phá. Sự truy cầu cái biết này dẫn ông tới