cổ mẫu trước đó chưa được đáp ứng. Chẳng hạn, ông ta có thể trở thành một
người cha đầy sức mạnh mà bệnh nhân không có khi còn nhỏ, và đây rõ ràng
là một thành phần cốt yếu trong sự chuyển di của Jung lên con người Freud.
Cuối cùng, hoạt động vô thức ở bệnh nhân gây ra hoạt động tương hỗ ở vô
thức của nhà phân tích, kết quả là sự ràng buộc giữa họ được chuyển hóa
thành một điều gì đó sâu xa hơn nhiều so với mối quan hệ bác sĩ - bệnh nhân
thông thường. Chính khía cạnh này của chuyển đi dẫn tới tầm quan trọng cốt
lõi của việc nhà phân tích được phân tích thấu đáo và luôn nhận thức về
“phương trình cá nhân” của mình. Khi ấy, nhà phân tích mới có thể nhận ra
những gì đang bị mình vô tình phóng chiếu lên bệnh nhân (cái gọi là chuyển
đi ngược) và sử dụng điều này theo cách có tính xây dựng trong mối quan hệ
trị liệu thay vì để nó bị phá vỡ.
Hơn nữa, khác với nhà phân tích của những trường phái khác, Jung
nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của cảm nhận - không chỉ cảm nhận
của bệnh nhân đối với nhà phân tích, mà cả cảm nhận của nhà phân tích đối
với bệnh nhân. Cảm nhận tạo ra một chất xúc tác vô giá. Nó phải hiện diện
trong mối quan hệ của bản ngã với vô thức cũng không kém gì trong mối
quan hệ phân tích. Điều này càng đúng khi bệnh nhân và nhà phân tích đều
là nam hoặc đều là nữ, khi sự thành công phụ thuộc vào việc mỗi bên ở
trong một “mối quan hệ cảm nhận” với vô thức của bên kia. Một số bệnh
nhân quá lý trí có thể “cố gắng hiểu chỉ bằng trí não… Và khi đã hiểu, họ
nghĩ họ đã hoàn tất toàn bộ phần hiện thực hóa của mình. Việc họ nên có
một mối quan hệ cảm nhận với những nội dung của vô thức có vẻ lạ lùng
hay thậm chí nực cười với họ” (Toàn tập XVI, đoạn 489). Nhưng nếu cảm
nhận không hiện diện, sẽ không xảy ra sự trưởng thành hay chuyển hóa nào.
Do vậy, trong một phân tích thấu đáo, nhân cách của cả bác sĩ và bệnh
nhân đều tham gia trọn vẹn. Khi truyền bá quan điểm được ông hết lòng
theo đuổi về mối quan hệ trong phân tích tâm lý, Jung đang hiện thực hóa
một tầm nhìn về công việc cả đời của ông. Đó là một thị kiến ông có được
khi đọc những lời của Kraft-Ebing hồi còn là sinh viên y khoa, rằng bệnh