Tầm nhìn vũ trụ này khiến ông có sự tôn kính dành cho vô thức và cái
không biết, cho sự soi sáng của biểu tượng, cho khả năng kỳ diệu của trí
tưởng tượng và tài nghệ điều hòa của chức năng siêu việt, cho ý nghĩa mà
chúng ta gán cho mọi thứ xung quanh, cho vai trò đứng đầu của tinh thần cá
nhân như sự liên kết giữa cuộc sống của chúng ta và những ý định khôn dò
của đại vũ trụ. Sự nhấn mạnh của ông vào giá trị vô giá của cá nhân, sự
khẳng định của ông về uy quyền tối cao của giác ngộ (hiểu biết thông qua
trải nghiệm, không phải thông qua học trong sách hay niềm tin), sự cởi mở
của ông với điều phi lý, điều tự phát và những sự kiện đồng hiện, sự tôn
vinh mục đích sáng tạo phong phú của cuộc sống, sự nhận thức tiến trình cá
thể hóa như mục tiêu tối cao khiến mọi mục tiêu khác đều là phụ thuộc, sự
thừa nhận giấc mơ và điều huyền bí như thể nói lên ngôn ngữ phi thời gian
của tâm linh - tất cả đều là những diễn đạt của cảm hứng về nguồn gốc vũ
trụ tràn đầy trong cuộc sống của ông.
Không nghi ngờ gì, Jung là một người kỳ lạ và khác thường, nhưng
thành tựu xuất chúng của ông sẽ không thể xảy ra nếu ông là kiểu người
khác, ông bày tỏ cương lĩnh của mình ở nhiều thời điểm khác nhau theo
những cách khác nhau, nhưng có một đoạn tổng kết tốt nhất: “Nhân cách là
sự hiện thực hóa tột cùng khí chất bẩm sinh của một con người. Nó là một
hành động của sự dũng cảm cao độ khi bị ném thẳng vào cuộc sống, là sự
khẳng định tuyệt đối của tất cả những gì tạo nên cá nhân, là sự thích ứng
thành công nhất trước các điều kiện tồn tại phổ quát kết hợp với sự tự do lớn
nhất để tự quyết về bản thân” (Toàn tập XVII, đoạn 289).
Dù nhận thức rằng hành tinh của chúng ta đang gặp nguy hiểm khủng
khiếp bởi sự vô ý thức của con người, ông vẫn lạc quan một cách cẩn trọng
về kết cục. Ông tin rằng không điều gì cốt lõi bị mất đi, bởi lẽ ma trận của
nó mãi tồn tại giữa chúng ta và luôn có thể được phục hồi bởi “những người
đã học được nghệ thuật ngoảnh đi trước ánh sáng loá mắt của những quan
điểm thịnh hành và bịt tai trước tiếng ồn của những khẩu hiệu phù du”.
Trong một lá thư gửi M. Serranno (ngày 14 tháng 9 năm 1960), viết vào năm