trào tự phát từ vô thức như ông xem là vậy. Tuy nhiên, ông suy nghĩ thấu
đáo về sự tồn tại của người phụ nữ bên trong này - người có khả năng làm
ông bực mình - và kết luận đó phải là sự nhân cách hóa của tâm hồn ông.
‘“Về sau, tôi đã nhận ra nhân vật nữ bên trong này đóng một vai trò tiêu
biểu, như một “cổ mẫu” trong vô thức của một người nam, và tôi gọi nó là
‘anima’” (Tự truyện, trang 179).
Toàn bộ khủng hoảng tự mất đi trong những tháng ngay sau khi kết
thúc Thế chiến I, khi ấy Jung đang là sĩ quan chỉ huy của một doanh trại
giam giữ tù binh người Anh. Nhiệm vụ không nặng nề, nên ông dành các
buổi sáng thực hiện một loạt những bức họa tự phát, có vẻ diễn tả trạng thái
tâm thần của ông thời điểm ấy. Sau này, ông nhận ra những bức họa đó
giống các mạn-đà-la (mandala) cổ. Mandala được tìm thấy ở khắp nơi trên
thế giới, chúng là những hình ảnh nguyên sơ về sự toàn vẹn hay tổng thể.
Dù có hình tròn, chúng thường tích hợp một số miêu tả về một bộ bốn,
chẳng hạn hình chữ thập hoặc hình vuông. Trung tâm của mandala thường
đề cập tới một hộ thần. Jung bắt đầu hiểu những bức họa này như những
miêu tả về Ngã, hạt nhân trung tâm của nhân cách, đôi lúc được ông gọi là
“cổ mẫu của các cổ mẫu”. Ông thấy những bức vẽ mandala cho phép ông
gán hình tướng khách quan cho những chuyển hóa tâm thần mà ông trải qua
từng ngày. “Tôi có cảm giác rõ rệt rằng chúng là thứ gì đó có vai trò cốt lõi,
và qua thời gian, tôi có được từ chúng một quan niệm sông động về Ngã (Tự
truyện, trang 187).