nghị sự về văn hóa thị giác, và một phần là do đường lối trong đó nó đặt
mỹ học vào địa vị thứ yếu, cũng như phạm vi rộng của những sản lượng
nghệ thuật được cứu xét, làm tách biệt bộ môn văn hóa thị giác khỏi bộ
môn lịch sử nghệ thuật. Văn hóa thị giác có lẽ là đắc địa nhất trong phân
tích về chủ nghĩa tư bản toàn cầu như được biểu hiện trong một thế giới đa
phương tiện về truyền thông đại chúng, và điều này xứng đáng là chủ đề
của một tập sách khác.
Thực hành lịch sử nghệ thuật
Bây giờ tôi muốn đưa ra một số thí dụ, trong đó lịch sử nghệ thuật
phát biểu và khảo sát một phạm vi trọn vẹn về những đề xuất xã hội và văn
hóa và về những chức năng đa dạng mà lịch sử nghệ thuật có được. Để làm
điều này, tôi đã chọn bốn hình tượng hoàn toàn khác nhau trong hạn từ về
đề tài và niên đại của chúng. Thí dụ đầu tiên là Sự kính ngưỡng của các
thuật sĩ/ The Adoration of the Magi (Hình 5), cũng có tên là Tranh thờ
Strozzi/ Strozzi Altarpiece của họa sĩ Gentile da Fabriano. Bức họa này nay
ở Phòng tranh Uffizi ở Florence, nhưng nguyên thủy nó là một trang trí bàn
thờ của dòng họ Strozzi trong giáo đường Chúa Ba ngôi (Santa Trinità) ở
Florence. Việc dời chỗ của bức tranh nêu lên một đề xuất quan trọng khi
thưởng ngoạn các tác phẩm nghệ thuật - rất thường là chúng không còn ở
địa điểm gốc, và ta thấy chúng như thành phần của một sự kế tục lịch sử do
một phòng tranh trình ra giới thiệu. Thông thường, những căn phòng khác
nhau trong một phòng tranh đi theo một tiến trình biên niên, có khi còn
được chia nhỏ thành các phân loại, các phong cách, hoặc theo chủ đề. Vậy
là bằng chứng nguyên khởi của chúng ta về lịch sử nghệ thuật - tức là tự
thân tác phẩm - được đưa ra khỏi khung cảnh gốc của nó. Nhìn vào một tác
phẩm nghệ thuật trong một phòng tranh có thể đặt dấu nhấn trên những đặc
trưng vật lí của tự thân tác phẩm, điều này lại quay về với những nguyên lí
phía sau sự am hiếu chuyên sâu về nghệ thuật mà chúng ta đã thảo luận.