Khi còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát,
chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp
bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có
trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:
"Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh"
Tạm dịch:
"Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!"
Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo
chính thống thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử học công minh
thì không thể không thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trường
vì quyền lợi đất nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân, một dòng
họ. Đối với nhà vua bất tài mà tham quyền cố vị, ông có bài thơ Ký
Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:
"Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực"
Dịch là:
"Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!".
(Bản dịch của Tuấn Nghi)
thái anh
(Tạp chí Xưa và nay)