ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ BẾN NGHÉ XƯA - Trang 203

203

cho người Pháp nào mộ trên 80 tá điền, khai thác ít nhứt
là 400 héc-ta thì được quyền lập một làng, dân trong
điền được hưởng qui chế riêng, gọi người làm cố công
(engagé), nôm na dân “xài giấy đỏ”, là “dân điền Tây”.
Họ đóng thuế thân màu đỏ, 1 đồng thay vì 4 đồng hoặc
hơn, được miễn những khoản tiền phụ trội linh tinh, thí
dụ như tiền canh phòng trật tự trong làng (gọi “nằm canh
điểm mục”). Bọn chủ điền Tây có quyền can thiệp khi
hương chức làng muốn xen vào lãnh thổ của họ để xét
người lạ mặt, bắt cờ bạc hoặc khám phá những trường
hợp đặt rượu lậu. Trong thực tế, hương chức làng, chủ
quận đều sợ mặt; bọn chủ điền Tây khi cần thì đi thẳng
lên tỉnh để khiếu nại; hương chức làng là nhóm người
được họ áp đặt trước. Mùa gặt, kinh rạch chung quanh
đều bị phong tỏa nghiêm nhặt, đề phòng trường hợp tá
điền bỏ trốn nợ hoặc bán lén lúa ra ngoài, trước khi đóng
đủ địa tô. Lại đặt những “chốt” quan trọng, treo cờ làm
hiệu (cờ màu vàng, cờ màu đỏ), gặp lá cờ, thuyền phải
dừng lại, bất cứ người trong điền hay là dân làng khác
vì sanh kế phải đi ngang qua. Chủ điền Pháp hoặc chủ
điền cao su chọn ưu tiên bọn lính Pháp giải ngũ để kiểm
soát an ninh trật tự (vì vậy xưng là “cặp rằng” (caporal)
như người cai chỉ huy, lính trong quân đội).

Trước năm 1930 người Pháp đứng tên trưng khẩn

đến 243.000 héc-ta, tức là hơn 1/10 tổng số diện tích
ruộng ở Nam Kỳ (trong thực tế, người Pháp chiếm non
150.000 héc-ta mà thôi, số còn lại do người Việt nhập
Pháp tích chia phần).

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.