qua vẫn còn giúp bố cày nốt hai sào ruộng ở cánh đồng Bến.
Bà Phạm bảo:
- Ai đẻ con ra lại muốn cho đi đánh nhau. Cũng là tại cái thằng giặc
cả, nó không sang ăn cướp nước mình thì đâu nên chuyện. Thằng Phạm
Anh nhà tôi yếu ớt quá, suốt ngày chỉ biết vùi đầu vào kinh vào sách.
Bà Đoàn nói:
- Yếu ớt cũng chẳng lo, theo anh theo em luyện tập vài tháng là lớn
phổng lên ngay ấy mà. Trai thời loạn chẳng ra giúp nước thì sao. Biết đâu
mà lo. Chúng nó đi rồi mình cứ chịu khó việc nông tang để anh em chúng
có cái ăn mà đánh giặc là được.
Tuy nói vậy nhưng bà Đoàn cũng lấy tay áo quệt vội những giọt nước
mắt chỉ chực rơi xuống. Mấy bà cùng nói:
- Bà Đoàn nói thế cũng phải.
Cốt Đãi Ngột Lang gầm lên làm những cây kiếm cong treo trên giá
run bần bật, nói:
- Vua đại Việt khinh ta quá lắm, đã không nghe lời lại còn giam sứ.
Phen này ta quyết làm cỏ nước Nam. Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí kiểm
điểm binh mã đợi lệnh.
(Cốt Đãi Ngột Lang (Iu-ri-ang-kha-đai): Nhiều tài liệu phiên âm là
Ngột Lương Hợp Thai, ở đây phiên theo lời hịch của Hưng Đạo vương
trong lần đánh Nguyên thứ hai)
A Truật lúc bấy giờ mới mười tám tuổi nhưng đã là một dũng tướng,
bước ra thưa: