Trời đã sang Đông, mây lạnh tràn về nhưng chưa lấy hết được sắc
vàng của ánh nắng mùa Thu. Bến Bình Than san sát những thuyền, hàng
nào đội ấy chỉnh tề. Cả một rừng cờ phần phật bay ngược chiều gió bấc.
Cạnh bến là chiếc thuyền cực lớn, chạm rồng, có mái che sơn son thếp vàng
rực rỡ, trên đỉnh cột buồm treo lá cờ đại có chữ Trần ở giữa, các góc thêu
hình long phụng. Đó là thuyền của nhà vua. Hoàng thượng về đây họp các
vương hầu bàn kế chống giặc. Khi các vương công đã yên vị trong thuyền,
nhà vua nói:
- Nay nhà Nguyên đã làm chủ Trung Quốc, trước sau gì cũng đánh
nước ta, cái thế không thể khác được. Trẫm triệu các khanh về đây bàn kế
phá giặc. Ai có kế hay hãy tâu lên.
Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang bước lên tâu:
- Thần trộm nghĩ ngồi chờ giặc đến đánh ta sao bằng học Lý Thường
Kiệt ngày trước đem quân đi đánh giặc có hơn không.
Nhà vua hỏi:
- Muốn đánh giặc phải làm thế nào?
Quốc Khang tâu:
- Chỗ căn bản của quân Nguyên đóng cả ở Kinh Hồ, ta nên chia quân
thuỷ bộ hai đường đánh sang, trước chiếm lấy đảo Quỳnh châu (Đảo Hải
Nam ngày nay) của người Lê làm chỗ dựa lâu dài rồi cùng tiến đánh Kinh
Hồ, dùng quân tinh nhuệ đột nhập phá hết quân lương, binh khí của giặc thì
chúng lo chống cũng khó còn đánh ta sao được.
Thượng vị hầu Trần Lão can rằng:
- Kế ấy nghe thì hay đấy nhưng đánh giặc đâu có dễ thế. Thần xin hiến
một kế khiến bọn Toa Đô, A Lý Hải Nha mảnh giáp cũng không còn.