những người đã đồng ý cho vay toàn bộ số vàng dự trữ của họ để phục vụ
mục đích đó. Thật không may, điều này lại không đủ để ngăn chặn được
dòng nước ngầm sôi sục của mức cầu về vàng, tổng cộng là 11.500 tấn
vàng, gần bằng 5 năm cung ứng của các mỏ, và 368 tỷ đô-la (trên mức giá
cơ sở là 1.000 đô-la/ounce) hay 110 tỷ đô-la (trên mức giá cơ sở là 300 đô-
la/ounce) đã bị lãng phí cho một doanh nghiệp không hiệu quả. Kết quả
thực sự là kho dự trữ của cả hai nước này đều trống rỗng.
Một câu chuyện khác nữa là nhiều quốc gia cho các ngân hàng vay vàng
của họ và các ngân hàng vàng này ngay lập tức bán số vàng đó đi. Đồng
tiền thu về được gửi tiết kiệm và khi giá vàng giảm, vàng sẽ được mua lại
để hưởng lợi nhuận cao. Nhưng không may, giá vàng tăng khiến các ngân
hàng phải chịu thua lỗ lớn theo giá thị trường đe dọa đến bản thân các cơ
quan này lẫn nền kinh tế toàn cầu, vì thế vấn đề này bị bưng bít đi. Quản lý
vốn dài hạn (LTCM) cũng thường nằm trong bối cảnh đặc biệt đó.
Rõ ràng, Thỏa thuận vàng của ngân hàng trung ương châu Âu (EcbGA),
có trong Chương 4, trên thực tế không phải là cơ chế để xóa đi được biến
động giá cả mà chỉ đưa ra một mức độ chắc chắn mà các ngân hàng trung
ương sẽ hành động phối hợp để đảm bảo rằng giá vàng có thể không tăng.
Bất kỳ ai, hay tổ chức nào, không đồng ý với điều này đều tự động bị
gán cho cái mác là một phần của “bè đảng âm mưu”, nhóm bị cáo buộc là
kết hợp với nhau để ngăn cản người dân phát hiện ra việc lạm phát trên thực
tế là không kiềm chế được. Trong nguyên mẫu đầu tiên của thể loại âm mưu
“Mật mã Da Vinci”, nếu một vấn đề không thể giải thích đầy đủ được, đôi
khi người ta cho rằng “Vaticăng” là người cho vay hoặc bán vàng thần bí.
Như với tất cả thuyết âm mưu tốt nhất, các vấn đề như vậy khó bị bác
bỏ một cách dễ dàng. Đối với nhiều người trong số các bị đơn, điều này sẽ