thời kỳ đen tối đã tới khi trong suốt năm 1999, một số quốc gia được cho là
thích vàng đã tìm cách làm vơi bớt kho dự trữ của mình.
Australia đã bán, rồi Anh và Thụy Sĩ cũng tuyên bố ý định thu hẹp
xuống gần một nửa kho dự trữ của mình; Thụy Sĩ đã bán bớt 1.300 tấn so
với Anh là 395 tấn.
Tới một chừng mực nhất định, thị trường đã quen với ý niệm các ngân
hàng trung ương bán vàng. Các nhà đầu tư không quan tâm đến quan điểm
này, song nó được chấp nhận. Tuy nhiên, khi tin tức về vụ bán vàng của
Australia bị vỡ lở, thì thị trường quốc tế đã hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm
soát. Các công ty khai mỏ không còn sôi nổi nữa và họ chỉ ra rằng số vàng
chưa được khai thác thuộc về họ hơn là về chính phủ. Tuyên bố này đã
khiến giá vàng càng hạ xuống sâu hơn.
Tương tự, giả sử Thụy Sĩ có ham muốn đối với vàng, đó cũng là một
phần văn hóa của họ như sôcôla và ngành ngân hàng vậy. Tuy nhiên, không
phải là trong trường hợp này. Theo một cách tương tự, London được xem là
ngôi nhà của thị trường vàng, với phần lớn giao dịch trên thế giới liên quan
đến thứ kim loại này được thực hiện ở London, nơi giá vàng tiêu chuẩn (cố
định giá) được xác định, và hơn nữa, đây cũng là mái nhà của nhiều nhà
làm giá lớn nhất toàn cầu và là nơi các quy định xác định tiêu chuẩn của
ngành này được thiết lập như “thanh vàng theo tiêu chuẩn của London
Good Delivery”. Anh là nước trữ vàng trong một thời gian dài. Theo cách
tương tự như Thụy Sĩ, thị trường cũng quá thỏa mãn rồi, và Chính phủ Anh,
thực tế là bên sở hữu số vàng dự trữ của Anh (không giống như ở phần lớn
nước khác, vàng thuộc sở hữu của ngân hàng trung ương), thực ra lại là bên
bán vàng và thích giữ đồng euro hơn.