Khi một ngân hàng ở Hồng Kông giao dịch với một ngân hàng ở
London, họ giao dịch trên thị trường London. Giao dịch này không có liên
quan gì với nơi ngân hàng đặt trụ sở hay đơn giản là nơi kim loại này “được
giao hoán”. Vì vậy, ví dụ tương tự như khi Mitsui Busan (Hồng Kông) giao
dịch với Barclays Bank (Singapore), họ cũng giao dịch trên thị trường
London. Trong khi tôi đi vào chi tiết làm rõ khái niệm sau, khái niệm đơn
giản nhất là nơi các tài khoản được kết toán – vì thế, vàng giao dịch “trên
thị trường London” cũng giống như cách mà đồng đô-la giao dịch ở “thị
trường New York” và đồng yên giao dịch trên “thị trường Tokyo”.
Đơn vị giao dịch là ounce tơrôi, không phải là ounce đo lường thông
thường. Ounce đo lường thông thường là đơn vị đo lường mà chúng ta quen
sử dụng trong cuộc sống thường nhật trong khi ounce tơrôi là đơn vị dùng
cho giao dịch kim loại quý. Ounce tơrôi lớn hơn ounce đo lường thông
thường xấp xỉ 10% (phép tính chính xác là một ounce tơrôi tương đương
với 1,09714 ounce đo lường thông thường). Như đã đề cập ở trước, bất cứ
khi nào ounce được đề cập liên quan tới vàng trong cuốn sách này, đó là
ounce tơrôi.
Trong khi LBMA đề cập tới số lượng tối thiểu mà khách hàng giao dịch
là 1.000 ounce tơrôi vàng, số lượng tiêu chuẩn liên ngân hàng là 5.000 hoặc
10.000 ounce. Đơn vị cơ bản này được cho là thanh theo tiểu chuẩn của
London Good Delivery – xác định đầy đủ trong Chương 2, nhưng nói ngắn
gọn là một thanh có trọng lượng từ 350 đến 430 ounce, là vàng 0,995
(995/1.000 và nói chung được gọi là “hai số chín một số năm”). Trên thực
tế, các thanh này có trọng lượng chênh lệch vài ounce, quanh mức 400
ounce, và cách gọi ngắn gọn trên thị trường cho là một thanh có trọng lượng
chính xác là 400 ounce.