quan đến tuần vũ, tổng đốc, dạy học, danh tiếng đến vua Minh Mạng cũng
phải ban khen… dân gian truyền tụng, thành phương ngôn "Ruộng Đồng
Di, thi Nguyệt Biều".
Ông Hầu ngừng lại thong thả kéo một hơi thuốc lào ở chiếc điếu bình bằng
ngà voi bịt bạc, rồi đưa tay trỏ đôi câu thếp vàng treo ở hai cột lớn gian
giữa, rung đùi đọc cho Lệ nghe:
Nan đắc hoa danh truyền lý học
Khả kham tạo vật đố toàn dân
Đó là hai câu của cụ Phan Thanh Giản, viếng ông Cố cháu, khen là bậc
khoa cử mà truyền được nghĩa lý lại, thể được lòng Tạo hoá mà không cầu
lợi danh. Học trò của Cố ta đậu cử nhân có 9 người, đậu tú tài hơn ba mươi
ra làm quan đông vô kể. Đến đời thứ ba "tam đại cận đế vương" ngoài một
ông làm ngự y, săn sóc cho vua Hàm Nghi, chữa bệnh cho cả Khâm sứ
Trung Kỳ, còn ông ngoại mẹ cháu thì sung Đại thần viện cơ mật lãnh
Thượng thư Bộ học kiêm Bộ binh và Đô sát Ngự sử, lại gia hàm Thái tử
Thiếu bảo. Bà vợ thứ hai của ông, sinh ra mẹ cháu, là công chúa con ngài
Kiên Thái Vương, em gái các vua Kiến Phước, Hàm Nghi, Đồng Khánh.
Như vậy, đến tứ, ngũ đại là đời mẹ cháu và cháu, làm sao cho danh tiếng
dòng họ được rạng rỡ, "dĩ hậu thế, thế kỳ xương". Dù họ Thân là bên ngoại
của cháu song theo lời truyền của thầy địa lý để lại ngôi nhà mả phát về
dòng thứ, như ông ngoại cháu là con bà vợ sau họ Hoàng, mẹ cháu cũng là
con bà thứ.
Nghe lời truyền lại, mả Tổ ta còn phát về bên nữ, ảnh hưởng bao gồm cả
phía ngoại nữa, kể từ tứ, ngũ đại trở di. Thầy địa lý có cho biết rằng mấy