không cho cô nhân tình bé con của anh hay là anh muốn cùng chết với cô
ta. Lẽ ra anh nên cho cô ta hay. Cô ấy tự vận, nhưng chắc không bao giờ
dám mơ tưởng anh cũng muốn chết theo. Anh không thương hại cô ấy
sao?»
«Cô ấy không chết...»
«Toan chết thì cũng vậy.»
Fumiko lại nói đến Otoko. Oki nghe trong bếp dầu sôi trong chảo, đoán vợ
nấu thịt heo với bắp cải. Mùi tương nồng lên. Oki nói:
«Món tương của em, anh sợ quá lửa rồi.»
«Em biết rồi. Em biết em không thể nào nấu canh tương cho đúng ý anh.
Anh cầu kỳ đã mua không biết bao nhiêu tương của cả nước này. Khiếp,
anh đủ tương để ngâm em vào trong ấy.»
«Em có biết người Hán viết chữ tương thế nào không?»
«Không. Nhưng cứ phiên âm ra mà viết, khó gì.»
«Không phải vậy. Chữ tương gồm ba chữ kính.»
«Vậy sao?»
«Vì tương quan trọng cho chuyện bếp núc, nên phải nấu cho đúng.»
«Có thể canh tương của anh hôm nay không ngon, vì ngài tương không
được em cung kính đủ.»
Fumiko lại trêu chồng. Oki nguyên quán miền tây, nên không bao giờ thoải
mái với ngôn ngữ lễ phép của Tokyo; Fumiko ngược lại sinh trưởng ở đây
nên nhiều khi giúp chồng chuyện này. Vậy mà Oki không phải bao giờ
cũng nghe lời vợ. Nhiều khi bất đồng ý kiến đến chỗ cãi nhau, Oki chê
tiếng Tokyo chẳng qua là một thổ âm tầm thường không truyền thống. Ông
hay nói ở Kyoto và Osaka, ngôn ngữ trong chuyện đàm tiếu cũng lễ phép,
khác hẳn ở Tokyo. Mọi vật từ nhà cửa, sông núi, ngay cả rau cá cũng được
diễn tả bằng những từ trang trọng.
Fumiko thường bỏ cuộc. Bà nói:
«Như vậy thì anh nên hỏi thằng Taichiro. Dù sao, con nó cũng là một học
giả.»
«Nó biết gì chuyện này. Nó có thể biết về văn học, nhưng chưa bao giờ nó
học về cách nói năng cho lịch sự lễ phép. Em hãy nghe ngôn ngữ cẩu thả